Thứ sáu, 25 Tháng 7 2014 00:00

Tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2013 và khuyến nghị chính sách

1. Tình hình tái cơ cấu trong lĩnh vực tài chính - tín dụng:

a. Những kết quả đạt được:

Sự lớn mạnh cả về quy mô lẫn năng lực của các Ngân hàng thương mại trong thời gian qua đánh giá một sự thay đổi tích cực trong cấu trúc thị trường tài chính ở Việt Nam kể cả sự tham gia của các nguồn lực từ nước ngoài. Quá trình cải cách của hệ thống ngân hàng nói riêng và thị trường tài chính nói chung có sự tác động tích cực từ những thể chế điều hành thị trường, qua đó đa dạng hoá và hiện đại hoá các dịch vụ tín dụng, hệ thống ngân hàng thương mại thật sự trở thành một kênh truyền tải hữu hiệu của chính sách tiền tệ.

Năm 2011, Chính phủ cùng Ngân hàng nhà nước đã có những bước đi quyết liệt, mạnh mẽ nhằm kiểm soát và ổn định thị trường vàng Việt Nam. Nhiều quy định được ban hành nhằm ổn định giá vàng trong nước, tránh tình trạng giá vàng trong nước quá chênh lệch so với thị trường quốc tế. Hoạt động tín dụng, huy động vốn và cho vay bằng vàng gần như bị chấm dứt hoàn toàn, nhìn chung các biện pháp chỉ mang tính tình thế, chưa thật sự bình ổn được thị trường nhưng ít ra trước mắt cũng đã ổn định được giá vàng trong nước.

b. Những tồn tại, hạn chế:

Trong bối cảnh diễn biến kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động đáng kể thì việc nới lỏng chính sách tiền tệ trong thời gian dài để duy trì mục tiêu tăng trưởng vẫn chưa được chú ý điều chỉnh kịp thời. Một số các công cụ điều hành chính sách tiền tệ đã tỏ ra khá lạc hậu và lỗi thời, không mang lại tính tối ưu cao đã gây ra một số tác động tiêu cực trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngoài ra, sự phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau giữa chính sách tiền tệ và các chính sách về kinh tế vĩ mô vẫn chưa được thực hiện thực sự có hiệu quả.

Các thành phần tồn tại trong thị trường tài chính Việt Nam có mức độ phát triển không tương đồng, lại thêm không có sự liên kết chặt chẽ giữa các thành phần này để tạo thành một thị trường tài chính bền vững gây khó khăn cho việc thu hút và phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả cho nền kinh tế, sau khi Việt Nam gia nhập WTO sự khác biệt về trình độ phát triển của các thành phần trong thị trường tài chính càng lộ rõ.

Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức cho thị trường tài chính Việt Nam khi số lượng ngân hàng thương mại nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng thương mại trong nước và bắt đầu chiếm lĩnh thị phần về dịch vụ cho vay và huy động vốn.

c. Kiến nghị một số giải pháp:

Từ năm 2013 trở đi, Việt Nam cần hành động quyết liệt hơn nữa trong các biện pháp tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng hoạt động không hiệu quả nhằm lấy lại niềm tin cho thị trường cũng như tái tạo lại một hệ thống tín dụng lành mạnh và một môi trường cạnh tranh bình đẳng.

Việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng phải luôn song hành với hoạt động điều chỉnh cấu trúc của thị trường tài chính nhằm đồng bộ hoá trình độ và mức độ phát triển của các nhân tố cấu thành thị trường thành một thể thống nhất, qua đó cụ thể hoá các mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ.

Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò điều hành thị trường cần xây dựng những hoạch định mang tầm chiến lược, có tính khả thi và tính thuyết phục cao nhằm tạo lập một hệ thống tài chính lành mạnh, môi trường cạnh tranh bình đẳng và hệ thống thông tin minh bạch, qua đó giúp thị trưởng phát triển ổn định hơn. Các chính sách, cơ chế được xây dựng cần phải dựa trên lợi ích và triển vọng của khu vực tài chính; các hoạch định và chính sách này cần phải được đổi mới hơn, áp dụng linh hoạt hơn nhằm thích ứng tốt nhất với các biến động lớn của thị trường, qua đó hạn chế và quản trị tốt rủi ro.

2. Tình hình tái cơ cấu trong lĩnh vực đầu tư công:

a. Những kết quả bước đầu:

Trong giai đoạn vừa qua, quá trình tái cơ cấu lĩnh vực đầu tư công đã mang lại nhiều kết quả đáng khen ngợi trong đó chuyển biến rõ nét nhất là sự suy giảm tỷ lệ đầu tư so với GDP, dần dần khắc phục mô hình tăng trưởng phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư. Trong năm 2012, tỷ lệ tổng đầu tư trên GDP giảm mức trung bình xuống còn 33,5% so với 34,6% của năm 2011 và giảm đáng kể so với mức bình quân của giai đoạn 2005 - 2010 là 42,5%. Thành phần đầu tư công có mức giảm mạnh nhất về tỷ lệ đầu tư, từ 17,2% của giai đoạn 2005 - 2010 giảm xuống còn 13,5% năm 2011 và 12,7% năm 2012.

b. Những tồn tại, hạn chế:

Thành quả của quá trình tái cơ cấu lĩnh vực đầu tư công cho thấy tỷ trọng của đầu tư công trong tổng đầu tư đã giảm đi đáng kể từ những mức rất cao của các giai đoạn trước. Mặc dù vậy, tỷ trọng nguồn vốn giảm mạnh nhất là vốn đầu tư từ lợi nhuận giữ lại của doanh nghiệp Nhà nước, trong khi vốn tín dụng của Nhà nước vẫn tăng mạnh. Tỷ trọng vốn tín dụng của Nhà nước chiếm đến một phần ba vốn tài trợ cho đầu tư công, tăng đáng kể so với mức một phần năm của giai đoạn năm 2005. Như vậy, theo giá trị tuyệt đối vốn tín dụng của Nhà nước đã tăng lên mức 114 - 115 nghìn tỷ đồng trên 1 năm trong giai đoạn 2010 - 2011 và ước tính năm 2012 là 169 nghìn tỷ đồng, so với mức 30 - 40 nghìn tỷ đồng giai đoạn 2005 - 2009 là tăng quá nhanh và nhiều. Nguyên nhân chính của trình trạng này là do khó khăn của nền kinh tế, các tổ chức đầu tư tài chính ở phía cung luôn tìm cách đầu tư vào trái phiếu chính phủ để tránh rủi ro, ngoài ra còn do việc trông chờ, phụ thuộc quá nhiều vào vốn trái phiếu chính phủ của phía cầu là các dự án thuộc Nhà nước.

Những vấn đề yếu kém trong nội bộ nền kinh tế vẫn chưa được giải quyết triệt để, tỷ lệ nợ xấu vẫn ở mức cao gây những gây cản trở nền kinh tế. Chính sách chi Ngân sách Nhà nước chưa được triển khai đúng hướng, đúng đối tượng. Quá trình tái cơ cấu đầu tư công tuy có gặt hái được thành quả nhưng nhìn chung diễn ra còn chậm, các thể chế liên quan đến tái cơ cấu đầu tư công như Luật Quy Hoạch, Luật Đô thị, Luật Quản lý, sửa dụng Ngân sách và sản xuất kinh doanh, Luật Ngân sách Nhà nước sửa đổi, Luật Đầu tư công... còn chậm được ban hành.

c. Kiến nghị một số giải pháp:

Giải pháp tình thế trước mắt cần triển khai khẩn trương chỉ đạo, hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc chỉ thị 09/CT-TTg ngày 24/05/2013 về tăng cường chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ tài chính và chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/06/2013 về tăng cường quản lý đầu tư, xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn Ngân sách và trái phiếu chính phủ. Tiếp tục tiến hành các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp theo các Nghị quyết 01 và 02 của Chính phủ nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng tổng cầu nền kinh tế. Tiến hành nhanh gọn các biện pháp nhằm giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản, đặt biệt đối với các dự án cấp bách có thể giải quyết nhanh đưa vào sử dụng.

Khu vực nông nghiệp, nông thôn cần được đầu tư đúng mức để tác động thúc đẩy tăng trưởng. Giải quyết nhu cầu nhà ở, nhà tái định cư thông qua ứng trước một phần ngân sách cho các địa phương. Quán triệt triệt để, thực hiện kế hoạch chi tiêu Ngân sách chặt chẽ, hiệu quả, tránh lãng phí cùng với giảm các chính sách làm tăng chi Ngân sách mà không có nguồn đảm bảo. Tăng cường trách nhiệm và tính tự chủ của người trực tiếp chỉ đạo sử dụng nguồn vốn Ngân sách nhưng đồng thời phải tăng cường công tác giám sát.

Đảm bảo hài hoà các mục tiêu và lợi ích, tính toán chu toàn cho các lợi ích đầu tư công, cần tiến hành khẩn trương ban hành bộ Luật đầu tư công cũng như bộ tiêu thức chuẩn hoá nhằm làm căn cứ pháp lý và cơ sở chung thực hiện phối hợp chính sách trong quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư công. Đa dạng hoá phương thức và nguồn huy động vốn đầu tư công nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư xã hội, giảm quy mô đầu tư công cho phù hợp với nền kinh tế, từ bỏ mô hình tăng trưởng nóng chuyển sang phát triển theo chiều sâu và có tính dài hơi cao.

3. Tình hình tái cơ cấu hệ thống doanh nghiệp Nhà nước:

a. Những kết quả đạt được:

Công tác sắp xếp, cổ phần hoá và tái cơ cấu hệ thống doanh nghiệp Nhà nước được triển khai mạnh mẽ, quyết liệt ngay từ năm 2011 dưới sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ban, ngành liên quan. Với nhiều chỉ thị và đề án hướng tới khẩn trương hoàn thiện tái cơ cấu hệ thống doanh nghiệp Nhà nước được Chính phủ ban hành và phê duyệt như Đề án tổng thể tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015 hay Chỉ thị về đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Nhiệm vụ được phân chia rõ ràng, cụ thể đến các cấp ngành từ Trung ương đến địa phương, các giải pháp và lộ trình tiến hành được cụ thể hoá một cách rõ ràng xác định rõ mục tiêu cuối cùng của quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước.

Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15 - 11 - 2013 phần nào đó đã hoàn thiện hơn. Tạo điều kiện thuận lợi để triển khai phân cấp thực hiện các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước và vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Đến nay, Chính phủ đã hoàn thành phê duyệt phương án sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2011 - 2015 của tất cả các bộ, ngành, địa phương trong cả nước, trong đó xác định rõ các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ 100% vốn, các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa với tỷ lệ nắm giữ cổ phần cụ thể, các doanh nghiệp thực hiện sáp nhập, giao bán, chuyển nhượng, giải thể, phá sản... Qua những bước tiến tích cực trên đã mang lại nhiều thành quả cụ thể,  đưa số doanh nghiệp Nhà nước hiện có từ 1.254 doanh nghiệp xuống còn 692 doanh nghiệp, tiến tới năm 2020 cơ bản các doanh nghiệp Nhà nước sẽ được cổ phần hóa, Nhà nước chỉ còn giữ lại khoảng 200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, công ích, an ninh quốc phòng.

b. Những tồn tại, hạn chế:

Đầu tiên phải nói đến đó là vấn đề nhận thức có phần sai lệch về vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Chức năng kinh tế của doanh nghiệp Nhà nước trong cơ chế thị trường cũng như sự phân vai của Nhà nước và thị trường trong quá trình công nghiệp hoá nền kinh tế nhiều khi chưa được xác định rõ ràng. Từ sau thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay tuy nhận thức về vai trò, chức năng của doanh nghiệp Nhà nước có phần nào được cải thiện nhưng vẫn còn tồn tại tư duy xem doanh nghiệp Nhà nước như một lực lượng vật chất của Nhà nước, đóng vai trò giúp Nhà nước điều tiết và quản lý thị trường vẫn là hạn chế đáng kể tạo trở ngại cho quá trình tái cơ cấu. Việc kém hiệu quả của hoạt động quản lý thị trường trong vấn đề phân bố vốn đầu tư không hợp lý gây lãng phí nguồn lực xã hội và mất cân bằng thị trường được thể hiện khá rõ qua một số dẫn chứng như các cơn sốt về bất động sản, lương thực - thực phẩm, thị trường chứng khoán… Cụ thể cơ chế kinh tế thị trường hiện nay bộc lộ nhiều điểm nghẽn lớn như: Doanh nghiệp chỉ quan tâm đến lợi nhuận, lợi ích trước mắt không quan tâm đến các mục tiêu lâu dài cho xã hội như an sinh xã hội, vấn đề ô nhiễm môi trường…; Các cuộc khủng hoảng thừa hoặc thiếu do mất cân đối về cung - cầu luôn có nguy cơ xảy ra; Xét về bản chất thì cơ chế kinh tế thị trường về lâu dài không thực sự đem lại lợi ích toàn cục cho xã hội mà nó chỉ thực sự là mô hình đem lại lợi ích và làm giàu cho thiểu số.

Ngoài ra sau nhiều giai đoạn thực hiện tái cơ cấu tuy về số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã có dấu hiệu giảm nhưng thực tế về quy mô tài sản so với thời kỳ đầu tổ chức lại tăng lên gấp nhiều lần nhất là về vốn chủ sở hữu. Các doanh nghiệp Nhà nước còn tồn tại đa phần có quy mô lớn và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, khi thời điểm luật doanh nghiệp Nhà nước hết hiệu lực vào 1 - 7 - 2010 thì tiến độ tái cơ cấu vẫn không đạt được mục tiêu đề ra, gây trì trệ cho quá trình cổ phần hoá. Ngoài ra, nhiều đơn vị xuất hiện hiện tượng “bình mới rượu cũ” khi hình thức bên ngoài đã chuyển đổi thành các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhưng về bản chất và phương thức hoạt động vẫn không có gì thay đổi. Hệ thống pháp luật của nước ta về quản lý nền kinh tế tuy đã phủ kín hầu hết các lĩnh vực của thị trường nhưng do sự can thiệp của Nhà nước ở nhiều cấp chính quyền dẫn đến hiệu lực thực thi của pháp luật chưa thực sự mạnh mẽ, nhiều công cụ để giám sát và thực thi còn thiếu làm giảm hiệu quả quản lý của Nhà nước và gây mất đồng bộ giữa nền kinh tế so với sự vận động của thị trường.

c. Một số kiến nghị về chính sách:

Đầu tiên cần phải đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá tại từng tập đoàn, công ty. Những quy định lạc hậu, không còn phù hợp với xu thế gây cản trở cho quá trình tái cơ cấu cần phải được gỡ bỏ ngay lập tức, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tái cơ cấu . Ngoài ra việc tiến hành bán cổ phần cho người lao động kèm theo những ưu đãi cũng là một giải pháp khá thiết thực trong giai đoạn hiện nay.

Đối với các tập đoàn, công ty đã báo cáo hoàn thành xong quá trình tái cơ cấu cũng cần phải triển khai công tác thanh tra, kiểm tra chặt chẽ nhằm đánh giá hiệu quả thực tế một cách chính xác. Tránh các trường hợp “bình mới rượu cũ”, chỉ thật sự thay đổi hình thức bên ngoài còn về bản chất và phương thức hoạt động vẫn đi theo lối mòn cũ, mang nặng tính hành chính gây tác dụng phụ đi ngược lại với quy luật vận động của thị trường.

Tiến hành khuyến khích, kêu gọi các khoản đầu tư ngoài ngành gồm cổ phần nắm giữ tại doanh nghiệp đại chúng nhăm đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Ban hành các quy định cụ thể nhằm minh bạch hoá và kiểm soát kỹ quá trình thoái vốn, tử đó giảm thiểu các thất thoát từ quá trình thoái vốn.

Các doanh nghiệp chỉ nên tập trung vào các hoạt động kinh doanh chính, thực hiện thoái vốn đối với các ngành nghề phụ. Việc thoái vốn và cơ cấu vốn đối với các doanh nghiệp Nhà nước có thể thực hiện thông qua các công ty quản lý tài sản Nhà nước hoặc các công ty xử lý tài sản. Đồng thời, để tăng cường năng lực tài chính cho doanh nghiệp Nhà nước thì cần thiết xử lý nợ xấu và cho phép doanh nghiệp thực hiện đa dạng hoá kênh huy động vốn để đảm bảo nguồn lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành