In trang này
Thứ hai, 22 Tháng 2 2021 09:57

VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

1. Địa vị pháp lý và chức năng của Quốc hội Việt Nam

“Địa vị pháp lý" là một thuật ngữ chuyên ngành của khoa học pháp lý, có nguồn gốc latinh “Status" dùng để khái quát hoá vị trí, mô hình của một cơ quan nhà nước nào đó trong hệ thống các cơ quan nhà nước thông qua các quy định pháp luật.

Vậy vị trí pháp lý của Quốc hội là sự khái quát hoá vị trí và mô hình của Quốc hội trong hệ thống các cơ quan nhà nước ta thông qua các quy định của pháp luật. Hay nói cách khác, thông qua các quy định của pháp luật, chúng ta xác định được vị trí của Quốc hội đứng ở chỗ nào và hình dáng ra sao trong hệ thống các cơ quan nhà nước.

Điều 69, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước".

Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất bởi vì Quốc hội là cơ quan duy nhất được nhân dân trực tiếp bầu ra. Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, nhân dân còn trực tiếp bầu ra đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Nhưng, Hội đồng nhân dân chỉ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân từng địa phương bầu ra. Chính việc Quốc hội do khối đại cử tri toàn quốc bầu ra từ những đại diện của mọi thành phần trong xã hội, từ mọi địa phương trên đất nước đã tạo ra cho Quốc hội ưu thế đặc biệt, hơn hẳn các cơ quan nước khác trong bộ máy nhà nước.

Vị trí pháp lý của Quốc hội còn thể hiện rõ trong các mối quan hệ được pháp luật quy định giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác. Trước hết phải kể đến mối quan hệ giữa Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với Chính phủ - cơ quan hành pháp cao nhất của Nhà nước ta. Theo tiến trình của bốn bản Hiến pháp, cơ quan hành pháp ngày càng được xác định rõ hơn là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Nếu như Hiến pháp năm 1946 quy định Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước (Điều 43) thì Hiến pháp năm 1959 và năm 1980 ngoài việc quy định Hội đồng Chính phủ (Hội đồng Bộ trưởng) là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, còn xác định rõ là cơ quan chấp hành cao nhất và cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất (Điều 71, Hiến pháp năm 1959 và Điều 104 Hiến pháp năm 1980). Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.

Đối với các cơ quan nhà nước khác ở trung ương: Chủ tịch nước, Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đều do Quốc hội thành lập bằng cách bầu ra những người đứng đầu hai loại cơ quan nhà nước này. Và cũng như Chủ tịch nước, Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trực thuộc Quốc hội và đều phải báo cáo trước Quốc hội.

Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không theo nguyên tắc phân quyền, mà theo nguyên tắc tập quyền quyền lực nhà nước không phân chia thành quyền lực lập pháp, quyền lực hành pháp và quyền lực xét xử (tư pháp) là cơ sở để Quốc hội trở thành cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Theo tinh thần của Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013, Quốc hội Việt Nam trong thời gian tới sẽ tập trung hơn nữa vào chức năng làm luật để khắc phục tình trạng vừa thiếu luật pháp, vừa có nhiều mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Điều đó thể hiện rõ chủ trương của Đảng trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền: mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước đều tuân theo pháp luật.

Mặc dù là cơ quan có quyền thông qua Hiến pháp, nhưng Quốc hội vẫn phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp. Quốc hội không thể tự định cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn khác, ngoài những nhiệm vụ và quyền hạn đã được Hiến pháp quy định. Trong hoạt động của mình, Quốc hội không những phải làm tốt chức năng lập pháp mà còn cần phải nâng cao hơn nữa việc thực hiện chức năng giám sát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước.

2. Chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội Việt Nam

Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Đây đồng thời cũng là những chức năng cơ bản của Quốc hội. Theo Điều 70 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;

2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

3- Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;

4- Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;

5- Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;

6- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

7- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.

Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp;

8- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;

9- Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, p, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;

10- Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp luật, nghị quyết của Quốc hội;

11- Quyết định đại xá;

12- Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;

13- Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình, quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;

14- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại, phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, từ cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;

15- Quyết định trưng cầu ý dân.