Thể chế chính trị có thể hiểu là loại hình chế độ, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước mà mỗi quốc gia hay rộng hơn là khu vực lựa chọn để quyết định xây dựng những quy định, luật lệ cho một chế độ xã hội mà chính phủ nước đó sử dụng để quản lý xã hội nói chung và bảo vệ môi trường nói riêng. Thế chế chính trị ảnh hưởng đến sự ổn định, chính trị, xã hội; việc ban hành các văn bản luật pháp, quy hoạch liên quan đến vấn đề môi trường. Thể chế chính trị tốt thì việc xây dựng và thực thi các giải pháp chính sách được tiến hành dễ dàng, ngược lại thể chế xấu thì việc ban hành, thực thi các chính sách về môi trường có thể dẫn tới những tác động tiêu cực[1].
Hiện nay trên thế giới có nhiều dạng thể chế chính trị khác nhau, có thể nhận biết thể chế này qua hiến pháp, đảng phái chính trị, bộ máy nhà nước (nguyên thủ quốc gia, cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp ở cấp Trung ương, phân chia lãnh thổ và chính quyền địa phương) của quốc gia đó.
Liên minh châu Âu (EU) cho đến nay vẫn được coi là một tổ chức thể chế quốc tế, tập trung quyền lực nhất về mặt pháp lý, chính trị và kinh tế trên thế giới. Sự tập trung bắt nguồn từ Hiệp ước Rome năm 1957, thành lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và Cộng đồng Năng lượng nguyên từ châu Âu (EURATOM). Đến năm 1992, Liên minh châu Âu được thành lập sau khi Hiệp ước Maastricht (Hiệp ước Liên minh châu Âu - Treaty of European Union) được ký kết, trên nền tảng các thành viên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu. Mục đích mà Maastricht đặt ra là thống nhất liên minh kinh tế và tiền tệ với đồng tiền chung và ngân hàng độc lập, thống nhất một liên minh chính trị với một chính sách đối ngoại và an ninh chung. Năm 1997, các nước này ký Hiệp ước Amsterdam còn gọi là Hiệp ước Maastricht sửa đổi, thời gian bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1 tháng 5 năm 1999, Hiệp ước này sửa đổi, bổ sung một số nội dung như: Những quyền cơ bản, không phân biệt đối xử Tư pháp và đổi nội; Chính sách xã hội và việc làm; Chính sách đổi ngoại và an ninh chung. Năm 2001, Hiệp ước Nice được ký kết và bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1 tháng 2 năm 2003, với mục đích bổ sung cho Hiệp ước Maastricht và Hiệp ước Rome. Hiệp ước Nice điều chỉnh các điều kiện để các thành viên mới gia nhập. Năm 2009, Hiệp ước Lisbon - Hiệp ước tái cấu trúc Liên minh châu Âu chính thức có hiệu lực, theo đó Liên minh châu Âu đã cải tổ đổi cấu trúc pháp lý của Liên minh sáp nhập cấu trúc 3 trụ cột thành một chính thể pháp lý duy nhất. Đây là nền tảng giúp EU có kiểu quyền lực siêu quốc gia. Điều đó có nghĩa là nước thành viên trao cho các cơ quan EU quyền lập pháp trong những lĩnh vực cụ thể và áp dụng pháp luật này theo trật tự pháp lý của mỗi nước thành viên.
Kể từ sáu quốc gia ban đầu, thành viên đã tăng lên 28 quốc gia thành viên - đại diện cho hơn 500 triệu người dân và cùng hợp tác và đưa ra quyết định bởi một hệ thống các cơ quan quản lý của EU. Việc gia tăng các quốc gia thành viên dẫn đến sự gia tăng đáng kể cả số lượng và phạm vi của các vấn đề chính sách thuộc thẩm quyền của EU. Các vấn đề môi trường nằm trong số các lĩnh vực chính sách mở rộng đáng chú ý nhất, liên quan đến việc chuyển giao đáng kể quyền quyết định từ các cơ quan trong nước đến cấp khu vực. Hiện nay, hầu hết các chính sách môi trường là được xây dụng bởi các cơ quan của EU, chứ không phải bởi các cơ quan lập pháp địa phương cũng như các cơ quan quản lý cấp quốc gia.
Thể chế chính trị của EU được quyết định bởi 7 cơ quan là Nghị viện châu Âu, Hội đồng bộ trưởng thực hiện quyền lập pháp. Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu thực hiện quyền hành pháp Tòa sẵn Công lý Liên minh châu Âu và Tòa án Kiểm toán châu Âu thực hiện quyền tư pháp. Ngân hàng Trung ương châu Âu chịu trách nhiệm về các vấn đề tiền tệ, đồng tiền chung
Về mặt luật pháp, Luật châu Âu có nguồn gốc từ pháp luật cơ bản và văn bản dưới luật. Án lệ cũng là một nguồn quan trọng để diễn giải luật cơ bản và văn bản dưới luật của EU.
Pháp luật cơ bản cụ thể gồm các hiệp ước và những hiệp định khác có vị thể như nhau. Luật pháp cơ bản được thống nhất thông qua đàm phán trực tiếp giữa chính phủ các nước thành viên. Những hiệp ước hiện nay về Liên minh châu Âu và chức năng của Liên mình đã trải qua một số lần sửa đổi và thông qua các "Nghị định thư" của các hiệp ước này đó là Hiệp ước Rome (1957), Đạo luật chung châu Âu (1987), Hiệp ước về Liên minh châu Âu Hiệp ước Maastricht(1992), Hiệp ước Amsterdam (1997), Hiệp ước Nice (2001), và Hiệp ước Lisbon (2009).
Văn bản dưới luật là quy định của Liên minh châu Âu được thực hiện thông qua các cơ quan của Liên minh, trên cơ sở thẩm quyền trao cho các cơ quan này.
Văn bản dưới luật gồm:
* Quy định - có tỉnh ràng buộc ở mọi nước thành viên;
* Chỉ thị - có tính ràng buộc về kết quả đạt được nhưng các nước thành viên có thể lựa chọn phương thức thực thi
* Quyết định - có tính ràng buộc đối với những nước mà quyết định để cập:
* Khuyến nghị - không có tính ràng buộc.
Án lệ là phán quyết của các tòa án EU trong các vụ việc cụ thể, nêu ra các diễn giải đối với những hiệp ước và văn bản dưới luật. Mặc dù mỗi phán quyết chỉ có tính ràng buộc đối với các bên liên quan, nhưng các diễn giải này thường được đưa ra sau khi cân nhắc nghiêm túc và đóng góp vào sự hiểu biết chung về luật EU.
Luật EU áp dụng với mọi nước thành viên và đối tượng thuộc quyền kiểm soát của luật. Trong trường hợp có xung đột giữa luật quốc gia với luật EU, sẽ áp dụng luật EU. Đây là quyền tối cao của luật EU. Ngoài ra, luật EU thâm nhập trực tiếp vào trật tự pháp lý của các nước thành viên EU. Luật được cơ quan quản lý hành chính (như hải quan) và tòa án quốc gia của các nước thành viên EU áp dụng trực tiếp. Đây là nguyên tắc áp dụng trực tiếp. Chẳng hạn, Điều 11, 191 đến 193 trong Hiệp ước về các chức năng của liên minh châu Âu (Functioning of the European Union-TFEU) đã chỉ rõ, EU có thẩm quyền hành động để giải quyết các vấn đề môi trường, chẳng hạn kiểm soát ô nhiễm không khí và nước, ứng phó với biến đổi khí hậu và quản lý chất thải... Phạm vi hoạt động của EU được giới hạn bởi các nguyên tắc bổ trợ cũng như yêu cầu về sự nhất trí của các thành viên trong Liên minh khi đề cập tới các vấn để tài chính, quy hoạch sử dụng đất nước, quản lý tài nguyên, lựa chọn nguồn cung cấp năng lượng[2].
Nhìn chung, nội dung lập pháp của châu Âu về cơ bản xuất phát từ các điều khoản trong các hiệp ước chung được thương lượng phê duyệt và sửa đổi bởi các quốc gia thành viên. Ví dụ như Hiệp tức Rome (1957), trong đó đặt ra các chức năng cơ bản của ECC mà không bao gồm vấn đề môi trường. Tuy nhiên, Hiệp ước Rome chứa đựng ngôn ngữ có thể phục vụ như một cơ sở pháp lý đối với các sáng kiến về môi trường. Hai nội dung quy định dựa trên Hiệp ước, đã được những người ủng hộ chính sách môi trường vận dụng như sau: thứ nhất, chức năng chung của cộng đồng là hỗ trợ hồi nhập và nguyện vọng có liên quan để cải thiện cuộc sống của người dân và điều kiện làm việc; và thứ hai là yêu cầu bắt buộc giảm các rào cản trong trao đổi thương mại và kinh tế hướng tới mục tiêu cuối cùng của việc tạo ra một thị trường chung. Nhận thấy qua những mục tiêu này, những người ủng hộ có thể đưa ra các lập luận, đòi hỏi sự hài hòa của môi trường và tiêu chuẩn sức khỏe con người tại các quốc gia thành viên.
[1] Trong cuộc nói chuyện với GS. David Camroux từ Viện Sciences-Po, Học viện Chính trị Paris (CERI) ông cũng đồng tình với nhận xét này
[2] European Parliament, nd., Environment policy: general principles and basic framework, URL: http://www.europarl.europa.eu/atyourservice/en/display Ftu.html?ftuld=FTU_5.4.1.html, truy cập ngày 2/10/2017.