Châu Âu được biết đến là khu vực phát triển bậc nhất trên thế giới, với nền công nghiệp được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ 18. Trong quá trình phát triển, các quốc gia châu Âu cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng như ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, suy giảm tài nguyên thiên nhiên, bệnh dịch... thậm chí cho tới hiện tại, đây vẫn là những vấn đề được người châu Âu đặc biệt quan tâm.
Kể từ sau năm 1992 đến nay, quá trình phát triển của các quốc gia châu Âu gắn chặt với mục tiêu phát triển bền vững. Trong đó, bảo vệ môi trường là mục tiêu được ưu tiên hàng đầu. Nhiều chính sách bảo vệ môi trường hướng tới phát triển bền vững được đưa ra được các quốc gia thực hiện bài bản và đạt được những thành tựu đáng khâm phục. Châu Âu được ví như khu vực văn minh, hiện đại bài hầu với tự nhiên và là điểm đến điểm sinh sống mong ước của người dân từ khắp các quốc gia trên thế giới.
Để đạt được những thành tựu đó, Châu Âu đã áp dụng các giải pháp điều tiết về mặt pháp lý như là một trong những biện pháp quan trọng nhất để thực thi chính sách bảo vệ môi trường. Nó đảm bảo cho các hành vi, các mối quan hệ trong xã hội phải tuân thủ pháp luật về môi trường và bảo vệ môi trường và đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ của con người khi có quan hệ pháp luật môi trường. Giải pháp này gồm luật pháp, tiêu chuẩn, quy chuẩn, giấy phép...
Đối với Luật môi trường: trên phương diện quốc tế luật môi trường thể hiện khá đa dạng bao gồm hiệp ước, quy ước, quy chế, quy định điều chỉnh sự tương tác của con người và môi trường tự nhiên. Trong đó tập trung vào hai đối tượng chính: 1) Kiểm soát ô nhiễm và khắc phục hậu quả; 2) Bảo tồn và quản lý tài nguyên. Trong quan hệ giữa các nước việc hình thành các nguyên tắc, quy phạm pháp lý quốc tế nhằm ngăn chặn, loại trừ mọi thiệt hại do các nguồn khác nhau gây ra nằm ngoài tài phán quốc gia là vô cùng cần thiết bởi các vấn đề môi trường thường không chỉ bỏ hẹp trong một khu vực, một đất nước mà nó đòi hỏi phải có sự chung tay của tất cả các nước. Thế giới đã có nhiều công ước, hiệp ước được các nước ký kết trong thời gian gần đây như Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (1982), Công ước Bảo vệ tầng ôzôn (1985), Công ước Khung về biến đổi khí hậu (1992), Nghị định thư Kyoto (1997), v.v... các quốc gia EU và Việt Nam đã tham gia rất tích cực vào các công ước này và được thế giới đánh giá cao. Chẳng hạn, các nước EU tham gia ký Công ước về ở nhiễm không khí xuyên biên giới tầm xa năm 1979, tham gia vào Công tắc về chống buôn bán các loài có nguy cơ tiệt chủng vào năm 1983, v.v....
Trên phương diện khu vực, EU cũng xây dựng những quy định chung về Nha về môi trường, dưới dạng các quy chế (regulation), sắc lệnh còn gọi là chỉ thị (directive) và phán quyết huy quyết định (decision). Quy chế về môi trường của EU được tự động bổ sung vua luật pháp hiện hành của các quốc gia thành viên mà không cần một biện pháp can thiệp nào vào và có giá trị pháp lý cao hơn nội luật của nước sở tại. Chỉ thị đòi hỏi các quốc gia thành viên phải thực hiện một số yêu cầu của EU đưa ra và họ có quyền tự quyết cách tổ chức thực hiện, triển khai chỉ thị. Đến thời điểm có hiệu lục nếu những chỉ thị này chưa được thực thì thì nó vẫn có hiệu lực trực tiếp ở quốc gia đó. Phán quyết hay quyết định là quy định được áp dụng trực tiếp cho một tổ chức, cá nhân, một quốc gia thành viên trong trường hợp vi phạm cụ thể. Về cơ bản những quy định về luật pháp này không phân thứ tự, thứ bậc. Chẳng hạn, những quy chế về trách nhiệm môi trường, tiêu chuẩn môi truong, v.v...
Quả trình phát triển kinh tế làm này sinh nhiều vấn đề môi trường mới đòi hỏi luật phải liên tục được sửa đổi, bổ sung để phát huy được vai trò quản lý nhà nước của mình. Vì vậy, sau khi ban hành luật, các quốc gia châu Âu cũng như Việt Nam đều phải tiến hành sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Do thời gian ban hành khác nhau, quan điểm khác nhau nên luật môi trường của các quốc gia châu Âu còn có nhiều điểm không tương ứng với nhau, điều này chỉ dần được giải quyết khi các quốc gia EU xây dựng luật chung về bảo vệ môi trường. Ở khía cạnh liên quốc gia, sự phối hợp và đàm phán giữa các nước để tìm đến sự tương đồng, chia sẻ và học hỏi các kinh nghiệm là điều hết sức cần thiết. Có thể nói đây cũng là một trong những cơ sở quan trọng nhất đặt nên tảng cho sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
Đối với góc độ tiêu chuẩn môi trường và sức khỏe thì tiêu chuẩn môi trường là các giá trị được ghi nhận của nhà dương cục trong quy định chính thức, xác định nồng độ tối đa cho phép của các chất trong thức ăn, nước uống, không khí hay giới hạn chịu đựng của con người và sinh vật đối với các yếu tố môi trường[1].
Ở châu Âu, người ta vẫn sử dụng thuật ngữ tiêu chuẩn chất lượng môi trường kể từ lúc được xây dựng cho tới nay mà chưa có sửa đổi, bổ sung. Tiêu chuẩn này được quy định cụ thể cho từng thành phần môi trường bao gồm, tiêu chuẩn đối với nước, không khí, đất, tiếng ồn. Chẳng hạn, đối với môi trường không khí, tiêu chuẩn chất lượng môi trường của EU quy định với 13 loại chất, hợp chất, có thời gian áp dụng khác nhau ở từng khu vực[2]. Đối với mỗi trường nước mặt, tiêu chuẩn chất lượng nước mặt được quy định với 33 chất, hợp chất[3], v.v... Các tiêu chuẩn này tự động cập nhật vào tiêu chuẩn môi trường quốc gia nước sở tại, do đó các nước EU không phải xây dựng tiêu chuẩn môi trường riêng, trừ một số khu vực đặc thù.
Nhìn chung, tiêu chuẩn hay quy chuẩn đều được phân loại một cách tương đối. Theo cách phân loại của Jorgensen S.E. 1989, có 4 loại: tiêu chuẩn chất lượng các thành phần môi trường; tiêu chuẩn khống chế kỹ thuật đối với máy móc thiết bị; tiêu chuẩn cảnh báo ở nhiễm và suy thoái môi trường[4]. Cách phân loại này được chấp nhận ở cả Việt Nam và các nước EU cũng như nhiều nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội của từng quốc gia mà tiêu chuẩn môi trường cũng khác nhau. Không thể áp dụng hoàn toàn tiêu chuẩn môi trường của một nước công nghiệp phát triển cho một nước đang phát triển cũng như không thể áp dụng hoàn toàn tiêu chuẩn nồng độ một chất khí bất kỳ ở các nước ôn đới cho các nước vùng nhiệt đới. Bởi vậy, việc học hỏi phương pháp xây dựng tiêu chuẩn luôn phải đặt lên hàng đầu đối với các quốc gia.
[1] Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh (2000), Quản lý môi trường cho sự phải triển bền vững, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
European Commission (2014), Air Quality Standard, URL: http://ec. europa.eu/environmentair/quality/ standards.htm, truy cập ngày 10/10/2014
[2] European Commission, (2014), Air Quality Standard, URL: http://ec. europa.eu/environmentair/quality/ standards.htm, truy cập ngày 10/10/2014.
[3] EUR-Lex (2014), Directive 2008/105/ec of the european parliament and of the council, URL: http://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/ALL/?uri= CELEX:32008L0105, truy cập ngày 13/11/2014.
[4] Jorgensen S.E., and W.J. Mitsch (1989), Classification and examples of ecological engineering, pp.13-19 in Ecological enginerring: An introduction to ecological engineering, New York: John Wiley & Sons.