Cộng đồng ngư dân là tập hợp những người sinh sống bằng nghề khai thác, chế biến, tiêu thụ và kinh doanh các sản phẩm hải sản ở các địa phương ven biển và hải đảo. Họ phụ thuộc chủ yếu vào hệ sinh thái ven biển và dễ bị tổn thương khi nguồn tài nguyên sụt giảm. Các cộng đồng ngư dân ven biển là nơi pha trộn của nhiều luồng văn hóa, dân cư phức tạp nhưng lại có sự cố kết thông qua các hoạt động sinh kế hàng ngày[1]. Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam chủ yếu vốn là những cư dân nông nghiệp chuyển sang làm nghề khai thác thủy sản. Khi chuyển sang nghề đánh cá, họ vẫn mang theo lối sống vật chất, tinh thần và lối sống xã hội của cư dân nông nghiệp ở vùng đồng bằng ra vùng biển. Tuy nhiên, do những điều kiện địa lý, lịch sử khác nhau và do tính đặc thù riêng về nghề nghiệp và cảnh quan địa lý của từng khu vực ven biển, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội mà tổ chức xã hội của ngư dân cũng có những đặc thù riêng.
Nếu lấy hình thức cư trú làm tiêu chí, có thể phân chia cộng đồng ngư dân thành hai bộ phận: bộ phận sống trên bờ và bộ phận sống dưới nước. Xuất phát từ đặc điểm cư trú, người ta cũng có cách gọi tên khác nhau đối với đơn vị hành chính cấp cơ sở của nhóm sống trên bờ (làng biển hay làng cá) và nhóm sống dưới nước (vạn chài). Mặc dù có cùng chức năng là đơn vị hành chính cấp cơ sở, trên thực tế, qua từng thời kỳ lịch sử, vạn chài có thể có chức năng ngang bằng với làng, hoặc có thể trực thuộc sự quản lý của làng.
Vạn chài bao gồm các ngư dân tiểu nghệ, có đời sống gắn bỏ với nghề khai thác thủy sản trên các bãi hoặc khu vực nước ven biển hoặc sông. Nguyên tắc tập hợp cư dân của các vạn chài dựa theo hai mối quan hệ chính: quan hệ theo huyết thống và quan hệ theo nghề nghiệp. Trước đây, ngư dân của vạn chài đa số thường không có đất đai, đời sống gắn với nghề chài lưới, do vậy vạn chài chính là tổ chức “làng, xã” của họ[2]. Ngày nay, nhờ chính sách của Nhà nước khuyến khích các vạn chài sống thủy cư chuyển lên đất liền sinh sống để ổn định và phát triển, ngư dân đã có nơi cư ngụ cố định ở trên bờ. Một bộ phận vạn chuyển ra khai thác xa bờ, một bộ phận được cấp đất và tham gia đánh cá và nhiều nghề khác, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp[3].
Trong thực tế, tổ chức xã hội theo kiểu van chài ngày nay không còn nhiều. Hiện nay, khai thác hải sản gắn liền với đặc trưng mùa vụ khai thác, nên vào các tháng trong mùa gió mùa Đông Bắc thường xuất hiện nhiều cơn bão lớn, để tránh rủi ro và thu được hiệu quả cao, trong các cộng đồng ngư dân thường hình thành một tập quán rất phổ biến là sinh hoạt và sản xuất tập trung theo nhóm nghề và dòng họ. Đây thường là các tổ/đội sản xuất hoặc tập đoàn có thể giúp đỡ nhau khi gặp hoạn nạn hoặc trao đổi ngư trường, vật tưsản xuất, lương thực, thực phẩm. Nếu xét theo ngành nghề lao động, cộng đồng ngư dân có thể bao gồm các hình thức sau đây[4]:
Cư dân nông nghiệp ven biển thường gồm hai nhóm. Một nhóm cư tụ trong những khu vực nội đồng được hình thành từ quá trình quai đê lấn biển và đã được cải tạo (ngọt hóa). Nghề chính của họ là trồng trọt, trong đó cây lúa là chủ đạo. Mặc dù bị cảnh quan biển chi phổi một phần, nhưng diện mạo văn hóa chính của họ vẫn mang đậm nếp sống của các làng cư dân nông nghiệp. Loại làng này xuất hiện phổ biến dọc theo chiều dài bờ biển nước ta, tiêu biểu nhất là các làng nông nghiệp ven biển Bắc Bộ. Nhóm thử hai cư tụ tại khu vực chuyển tiếp giữa vùng đất thịt đồng bằng và vùng bãi cát ven biển. Tuy là những làng nôngnghiệp nhưng chúng mang tính đặc thù riêng: làng xóm dựng trên những trắng cát cao, khô, không có ruộng nước, cây trồng chủ yếu là khoai lang.... và họ tiếp xúc dần với biển. Mặc dù khai thác biển chỉ là nghề phụ nhưng chúng cũng đóng vai trò khá quan trọng trong đời sống kinh tế của họ. Các làng này thường tập trung ở vùng ven biển từ Hà Tĩnh trở vào đến Nam Trung Bộ.
Các làng diêm nghiệp:
Là những làng chuyên sống bằng nghề làm muối. Làng xóm của họ cũng giống như những làng nông nghiệp: vào mùa hè, họ lợi dụng nước thủy triều để làm muối, nhưng sản phẩm của họ mang tính hàng hóa hơn làng nông nghiệp; hết mùa làm muối, họ tìm các công việc khác để có thêm thu nhập. Tuy nhiên, số lượng làng diêm nghiệp không nhiều và tập trung phần lớn ở các tỉnh Nam Trung Bộ.
Là những làng này lấy việc đánh cá biển làm nguồn sống chính, gồm 3 nhóm làng chính:
Làng ven biển: là những làng dựng trên đất liền ngay gần bờ biển, cách mép nước khoảng vài trăm mét và gần các lạch (hay bầu) nước ngọt. Có hai loại hình ngư dân sống trên những địa hình này. Một là, ngư dân bãi dọc (vùng cửa sông), là những cộng đồng dân cư sống ở cửa biển, sống chủ yếu bằng nghề biến nên họ có kỹ thuật đi biển và đánh bắt cá trên biển khá cao. Hai là, ngư dân bãi ngang, là những ngư dân định cư tại các dải cát dọc ven biển và ở những vùng không phải cửa sông, sống bằng nghề đánh cá ở biển, kết hợp với các hoạt động kinh tế phụ như trồng trọt, buôn bán hay làm nghề thủ công tùy theo đặc điểm môi trường và tập quánở từng vùng.
Làng chài: là những làng sống bằng nghề đánh cá nhưng thường không có đất thổ cư ở trên bờ, hoặc ít có kết nối chặt chẽ với cuộc sống trên đất liền.
Làng đảo: là những làng ở các đảo ngoài khơi, ngoài đánh cá, cư dân còn sống bằng nhiều nghề khác như trồng trọt (như đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi) hoặc vận tải, buôn bán, khai thác rừng (như đảo Quan Lạn, Quảng Ninh).
Ngoài những hình thái tổ chức cư dân như trên, chúng ta cũng gặp kiểu tổ chức cư dân tiêu biểu như xóm, ngõ. Mỗi làng Việt ở ven biển đều chia thành nhiều xóm. Mỗi xóm có thể lại chia thành nhiều ngõ. Các gia đình trong một xóm ngõ không nhất thiết phải là những người có quan hệ huyết thống, ngược lại, đa số các trường hợp, quan hệ giữa họ với nhau là quan hệ láng giềng và quan hệ này được mọi người rất coi trọng, theo tinh thần “hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau hay “bán anh em xa mua láng giềng gần”- như cư dân nội đồng. Tuy nhiên, đối với cư dân vạn chài, do nhà của họ là thuyền luôn di chuyển theo ngư trường nên các cụm dân cư rất không ổn định. Tính chất “láng giềng” tuy vẫn chi phối mạnh mẽ trong quan hệ cư trú và cư xử của họ nhưng không còn “đậm đặc” như ở các làng trong nội đồng. Nhóm cư dân này có nhu cầu và khả năng bám biển cao, dài ngày.
Ngày nay, tại các làng khu vực bãi ngang và các làng khu vực nước lợ, các hoạt động kinh tế gắn với biển chưa pháttriển mạnh, chưa làm thay đổi đáng kể nội dung hoạt động kinh tế của cư dân; đời sống người dân vẫn khó khăn; điều kiện kết cấu hạ tầng về đường sá, nước sạch, trường học, bệnh viện.... đều chưa phát triển. Mặc dù gần đây, lĩnh vực du lịch biển và ven biển đã bắt đầu khởi sắc tại một số khu vực được coi là bãi ngang ven biển ở miền Bắc và miền Trung, những người dân ở những khu vực này vẫn hình thành những quần cư bám vào “kinh tế lúa nước” làm “cơ sở an toàn" đảm bảo cho những rủi ro trong các hoạt động khá thác và nuôi trồng thủy sản. Đây là một trong những điểm cần lưu ý khi xây dựng chính sách cho ngư dân.
Tài liệu tham khảo
1. Tưởng Phi Lai Kenneth Ruddle và Nguyễn Quang Vinh Bình: “Vai trò của vạn chài quản lý nghề cá truyền thống - đề xuất hướng lồng ghép những giá trị của vạn chài trong quản lý nghề cá ven bờ ở Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và Phát triển nông thôn (RECERD), 2012
2. Nguyễn Quang Vinh Bình (2009). Van chai in Thua Thien Hue: Tradition, present and future challenges, In: Ruddle, Kenneth and Tuong, Phi Lai (eds.), (2009). The Van chai of Vietnam: Managing nearshore fisheries and fishing communities. International Resources Management Institute. Publication No.3. Hong Kong.
[1]Xem Tưởng Phi Lai Kenneth Ruddle và Nguyễn Quang Vinh Bình: “Vai trò của vạn chài quản lý nghề cá truyền thống - đề xuất hướng lồng ghép những giá trị của vạn chài trong quản lý nghề cá ven bờ ở Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và Phát triển nông thôn (RECERD), 2012
[2]Xem Nguyễn Quang Vinh Bình (2009). Van chai in Thua Thien Hue: Tradition, present and future challenges, In: Ruddle, Kenneth and Tuong, Phi Lai (eds.), (2009). The Van chai of Vietnam: Managing nearshore fisheries and fishing communities. International Resources Management Institute. Publication No.3. Hong Kong. pp.21-35
[3]Xem Nguyễn Duy Thiệu: “Các cộng đồng ngư dân thủy cư tại Việt Nam", tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, tr. 3-10, 2003
[4]Xem Bùi Tất Thắng và cộng sự “Báo cáo tổng hợp Đề án đề xuất giải pháp tổng thể nâng cao đời sống cư dân dài ven biển Việt Nam thời kỷ 2012-2020 và tầm nhìn 2030”, Hà Nội 2016