Thứ sáu, 23 Tháng 7 2021 17:21

Sự liên quan giữa biến đổi khí hậu với các cuộc cách mạng công nghiệp và sự phát triển của nền văn minh vật chất trên thế giới

Để làm rõ mối liên quan giữa biến đổi khí hậu, mối hiểm họa lớn nhất cho nhân loại trong thế kỷ XXI, với các cuộc cách mạng công nghiệp cũng như với sự tiến hóa của nền văn minh vật chất, cần hiểu rõ nguyên nhân của biến đổi khí hậu thời hiện đại, đó là: tác động của con người đến biến đổi khí hậu được biểu hiện qua sự biến động nồng độ đậm đặc của khí nhà kính, mức suy giảm tầng ôzôn, mức ô nhiễm không khí của khu vực và những biện pháp sử dụng đất...

Cho đến nay, chúng ta đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp và bắt đầu bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, gọi là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Nét nổi bật là, sau mỗi cuộc cách mạng công nghiệp trình độ khoa học - công nghệ lại có bước tiến nhảy vọt đưa thế giới loài người sang một nền văn minh mới cao hơn. Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên diễn ra vào nửa cuối thế kỷ X và gần nửa đầu thế kỷ XIX, với việc sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Trong cuộc cách mạng công nghiệp lần 2 diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XIX cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra, loài người đã tiến tới sản xuất hàng loạt nhờ điện khí hóa do ứng dụng điện năng và, trong cuộc cách mạng công nghiệp lần 3 diễn ra từ những năm 1970, loài người đã đạt được trình độ tự động hóa sản xuất nhờ sử dụng điện tử và công nghệ thông tin.

Cho dù những cuộc cách mạng công nghiệp sau có trình độ khoa học - công nghệ cao hơn cuộc cách mạng công nghiệplà, để đáp ứng cho sự phát triển kinh tế và nhu cầu sinh hoạt ngày càng tăng, con người đã sử dụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đột), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất.

Các nhà khoa học đều khẳng định, hoạt động của con người đã và đang làm khí hậu toàn cầu biến đổi. Nguyên nhân chủ yếu của sự biến đổi đó là sự tăng nồng độ khí nhà kính trong khí quyển. Đặc biệt quan trọng là tăng lượng dioxit cacbon (CO2) được tạo thành do sử dụng năng lượng nhiên liệu hóa thạch, sự phá rừng và khai thác đất...

Sự tiến hóa của nền văn minh vật chất càng cao cùng với sự gia tăng nhanh dân số trên thế giới, nhu cầu về năng lượng của nhân loại ngày càng nhiều, trong đó năng lượng hóa thạch chiếm phần lớn. Sử dụng năng lượng hóa thạch nhiều đã là nguyên nhân làm tăng nồng độ khí CO2 lên đáng kể, nếu tính từ khi bắt đầu phát triển công nghiệp đến nay. So sánh với các hoạt động khác, ta thấy năng lượng trở thành một ngành phát thải khí nhà kính nhiều nhất, trong đó các nước phát triển góp phần lớn.

Như vậy, phát thải khí nhà kính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến biến đổi khí hậu hiện nay, một sự thay đổi môi trường lớn lao nhất mà con người phải chịu đựng. Đây cũng là lý do giải thích vì sao biến đổi khí hậu là một vấn đề mang tính toàn cầu. Báo cáo thứ 3 của Ủy ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) khẳng định: hoạt động của con 1 đóng góp trên 90% cho biến đổi khí hậu hiện nay.

Tăng nồng độ khí nhà kính dẫn đến tăng hiệu ứng nhà kính của khí quyển và kết quả là tăng nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất.

Từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, lượng CO2 tăng 31%, C4 tăng gấp trên hai lần và N20 tăng 17%. Đó là những chứng cứ rõ rệt của sự tăng nồng độ khí nhà kính do đốt nhiên liệu hóa thạch trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng trong các ngành công nghiệp, trong giao thông vận tải, do sử dụng các thiết bị điện: tủ lạnh, điều hòa không khí nóng, lạnh cũng như các hoạt động khác của con người. CO2 chiếm khoảng 2/3 tác động của khí nhà kính.

Theo báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC, phát thải khí nhà kính toàn cầu tăng từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng năm 1750) và tăng 70% trong giai đoạn 1970 - 2004. Hàm lượng CO2, CH4 và N2O trong khí quyển do hoạt động của con người từ năm 1750 đến nay, đã vượt xa mức tích tụ tự nhiên trong hàng nghìn năm. Căn cứ theo số liệu nghiên cứu lõi băng ở Greenland và Nam cực... Đến năm 2005, nồng độ khí CO2 và CH4 trong khí quyển cao hơn gấp nhiều lần so với 650 năm trước. Cụ thể về các nguồn phát thải và mức đóng góp vào việc làm nóng trái đất như sau: (i) Gia tăng CO2 chủ yếu do sử dụng nhiên liệu hóa thạch (trong ngành năng lượng, công nghiệp, giao thông...) và có sự đóng góp đáng kể của việc thay đổi sử dụng đất, phá rừng; (ii) Gia tăng CH4 do hoạt động nông nghiệp và sử dụng nhiên liệu hóa thạch và (in) Gia tăng N2O do hoạt động nông nghiệp.

Theo đánh giá khoa học của IPCC, việc tiêu thụ năng lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng... đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9%, các ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là từ các hoạt động khác.

Từ năm 1840 đến 2004, tổng lượng phát thải khí CO2 của các nước giàu chiếm tới 70% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu, trong đó ở Hoa Kỳ và Anh trung bình mỗi người dân phát thải 1.100 tấn, gấp khoảng 48 lần ở Ấn Độ.

Riêng năm 2004, lượng phát thải khí CO2 của Hoa Kỳ là 6 tỷ tấn, bằng khoảng 20% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu. Trung Quốc là nước phát thải lớn thứ 2 với 5 tỷ tấn CO2 tiếp theo là Liên bang Nga 1,5 tỷ tấn, Ấn Độ 1,3 tỷ tấn, Nhật Bản 1,2 tỷ tấn, Cộng hòa Liên bang Đức 800 triệu tấn, Canađa 600 triệu tấn, Vương quốc Anh 580 triệu tấn. Các nước đang phát triển phát thải tổng cộng 12 tỷ tấn CO2 chiếm 42% tổng lượng phát thải toàn cầu so với 7 tỷ tấn năm 1990 (29% tổng lượng phát thải toàn cầu), cho thấy tốc độphát thải khí CO2 của các nước này tăng khá nhanh trong khoảng 15 năm (từ năm 1990 đến năm 2004).

Tại Việt Nam năm 1990 phát thải 21,4 triệu tấn CO2. Năm 2004, phát thải 98,6 triệu tấn CO2, tăng gần 5 lần, bình quân đầu người 1,2 tấn/năm (trung bình của thế giới là 4,5 tấn/năm, Xingapo 12,4 tấn, Malaixia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 tấn, Trung Quốc 3,8 tấn, Inđônêxia 1,7 tấn, Philippin1,0 tấn, Mianma 0,2 tấn, Lào 0,2 tấn).

Như vậy, cùng với đà tăng phát thải khí nhà kính trên thế giới, phát thải các khí CO2, của Việt Nam tăng khá nhanh trong 15 năm (từ năm 1990 đến năm 2004), song vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn cầu và nhiều nước trong khu vực. Theo các chuyên gia thuộc Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài Nguyên và Môi trường, chỉ trong 4 năm kể từ 2010 đến 2014, phát thải khí nhà kính của Việt Nam tăng 73 triệu tấn CO2[1].

Một số nước phát triển dựa vào đó để yêu cầu các nước đang phát triển cũng phải cam kết theo Công ước biến đổi khí hậu. Thỏa thuận Pari về biến đổi khí hậu được thông qua tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 21 (COP21), là văn bản pháp lý toàn cầu đầu tiên ràng buộc trách nhiệm của tất cả các Bên trong ứng phó với biến đổi khí hậu. “Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định” (INDC) thể hiện trách nhiệm đó. Việt Nam đã cam kết trong INDC của mình với mục tiêu đến năm 2030, bằng nguồn lực trong nước, sẽ giảm 8% tổng lượng phát thải khí nhà kính và có thể tăng lên thành 25% khi nhận được hỗ trợ quốc tế thôngqua hợp tác song phương, đa phương và thực hiện các cơ chếmới trong Thỏa khí hậu toàn cầu. Đóng góp giảm nhẹ phát thải khí sẽ định kỳ được xem xét, đánh giá, điều chỉnh cho phù với điều kiện triển kinh tế xã hội từng thời kỳ[2].

Ngày 18/4/2017, các nhà nghiên cứu dường học Scripps thuộc học California, San Diego, Mỹ ghi nồng độ CO2, tại quận Mauna Loa ở Hawaii, Mỹ là 410,28 ppm, mức cao nhất trong khí quyển trái đất trước nay. Nhiều khả năng chỉ là điểm khởi đầu cho những kỷ lục đáng sợ khác trong những năm tới.

Theo Pieter Tans, nhà khoa học đứng đầu Mạng lưới và khí đại dương và Mỹ (NOAA), nồng độ CO2 trong khí quyển hiện cao hơn nhiều so nồng độ CO2 vài triệu trước được đo trong băng đá trầm tích người từng chứng kiến sự gia tăng đáng kể nồng độ CO2 trong khí quyển 80 ppm, kỷ Băng 11.000 17.000 mức nồng CO2 trong khí quyển hiện nay cao gấp 200 lần với kỳ đó.

Vì lẽ đó, nhà nghiên cứu khi khẳng định: Sự biến đổi khí do con gây ra đang làm gián đoạn chu kỳ tự nhiên và nhân loại tạo kỷ nguyên Anthropoeene” (kỷ nguyên con người) bắt đầu giữa thế kỷ XX với các yếu tố như thử hạt nhân và công nghiệp hóa.

           Tài liệu tham khảo

1. Bộ Tài nguyên và Môi trường: Báo cáo kỹ thuật “Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định của Việt Nam”, 2015

 


[1]Xem Bộ Tài nguyên và Môi trường: Báo cáo kỹ thuật “Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định của Việt Nam”, 2015

[2]Xem Bộ Tài nguyên và Môi trường: Báo cáo kỹ thuật “Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định của Việt Nam”, 2015

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành