Hệ tiêu chí nước công nghiệp được xem là tập hợp các tiêu chí phản ánh thành quả phát triển, đặc điểm, tính chất của một quốc gia khi đạt đến trình độ của nước phát triển. Việt Nam đã đặt mục tiêu đến năm 2020 sẽ là một nước công nghiệp, tuy nhiên căn cứ xác lập tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Nếu căn cứ vào quy mô các chỉ số bình quân của GDP hay GNI hàng năm được các tổ chức WB, IMF và Liên hợp quốc xếp loại các nước trên thế giới thông qua quy đổi theo sức mua đương đương (PPP) để xác định sự cường thịnh của các nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng tiêu chí nhận diện nước công nghiệp dựa trên thu nhập (GDP)/ GNI/người khá đơn giản và không đánh giá đầy đủ trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia, chưa đề cập đến một hệ thống tiêu chí toàn diện đánh giá sự phát triển của một quốc gia và dễ gây ra tranh cãi khi phân loại sự phát triển của các nền kinh tế. Chính vì vậy, các tổ chức trên thế giới đã đưa ra một số tiêu chỉ nhận diện nước công nghiệp theo trình độ phát triển xã hội dựa trên những chỉ số sau:
1. Chỉ số phát triển con người (Human Development Index HDI)
Từ năm 1990, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc thực hiện cách phân loại các nước theo chỉ số phát triển con người (Human Development Index- HDI). Dựa vào HDI, các quốc gia trên thế giới được phân loại thành 4 nhóm:
- Nhóm nước có trình độ phát triển con người thấp có HDI < 0.549;
- Nhóm nước có trình độ phát triển con người trung bình có HDI từ 0,55 – 0,69.
- Nhóm có trình độ phát triển con người cao có HDI từ 0,7 – 0,79.
- Nhóm có trình độ phát triển con người rất cao có HDI từ 0,8 - 1.
UNDP cho rằng, phân loại theo tiêu chí HDI toàn diện hơn tiêu chỉ thu nhập bình quân đầu người, bởi nó kết hợp cả yếu tố kinh tế và phi kinh tế. Năm 1996 khi trở thành thành viên của OECD, Hàn Quốc có chỉ số HDI đạt giá trị là 0,79 - ngưỡng cao nhất của mức cao. Hiện nay, các nước công nghiệp mới và Hàn Quốc đều có HDI đạt giá trị rất cao (trên 0,9).
Ngày nay, HDI được xem là một tiêu chí quan trọng để đánh giá sự thành bại của một quốc gia thông qua sự phát triển con người. Tuy nhiên, HDI vẫn còn những hạn chế như: HDI vẫn lệ thuộc vào sự tăng trưởng GDP và GNI/người; HDI chỉ giới hạn trong ba bình diện của phát triển con người là tuổi thọ trung bình, giáo dục và thu nhập. Những hạn chế của HDI càng rõ nét hơn khi các quốc gia đạt được trình độ phát triển con người cao hơn, đặc biệt là khi trở thành quốc gia có nền công nghiệp phát triển. Điều này được thể hiện như sau:
Thứ nhất, theo quan điểm tháp nhu cầu của Maslow thì con người và xã hội nói chung sẽ tiến từ nhu cầu cơ bản đến nhu cầu cao cấp, từ nhu cầu vật chất sang nhu cầu tinh thần. Các chỉ số thành phần của HDI mới chủ yếu dừng ở việc phản ánh đáp ứng nhu cầu ở cấp thấp gồm nhu cầu cơ bản và một phần nhu cầu an toàn, nhận thức hiểu biết. Khi những nhu cầu cấp thấp này được đáp ứng, con người sẽ phát sinh nhu cầu bậc cao, do đó tiến trình phát triển của xã hội đòi hỏi phải thỏa mãn được những nhu cầu đó. Chính vì lẽ đó, khi một quốc gia đạt trình độ phát triển cao thì tiêu chí phản ánh sự tiến bộ xã hội cũng phải thể hiện được việc đáp ứng các nhu cầu của con người ở bậc cao.
Thứ hai, sử dụng HDI rất khó để đánh giá được sự khác biệt giữa các nước công nghiệp phát triển. Đó là do ở các nước có trình độ phát triển cao, những thành tựu về thu nhập và trình độ học vấn gần như là giống nhau, do đó sự khác biệt giữa các nước chủ yếu dựa vào sự khác biệt về tuổi thọ bình quân mà chỉ số này thì biên độ dao động giữa các nước là rất nhỏ.
Do vậy, khi các nền kinh tế đã đạt trình độ phát triển cao, muốn đánh giá trình độ phát triển cũng như so sánh giữa các nước với nhau thì cần một chỉ số phức tạp hơn, không chỉ phản ánh việc xã hội đáp ứng được nhu cầu cơ bản của con người mà còn phải phản ánh việc xã hội cung cấp các điều kiện để người dân có thể cải thiện cuộc sống và tự do thể hiện những lựa chọn của riêng mình. Đồng thời, các chỉ số đó phải so sánh được trên phạm vi quốc tế. Những năm tiếp theo, UNDP đã đưa thêm các chỉ số khác như: HPI (Human Poverty Index là chỉ số nghèo khả năng phát triển con người hay còn được gọi là chỉ số nghèo khổ tổng hợp); GDI (Gender - related Development Index là chỉ số phát triển liên quan tới giới) và GEM (Gender Empower Measure là chỉ số đo lường sự trao quyền giới); IHDI (Inequality-adjusted Human Development Index là chỉ số phát triển con người có sự điều chỉnh bất bình đẳng); MPI (Multidimensional Poverty Index là chỉ số nghèo đa chiều), nhằm làm rõ thêm những khía cạnh xã hội của sự phát triển con người. Đây được coi là những bổ sung quan trọng để có thể đánh giá một cách hoàn thiện hơn về mức độ phát triển con người.
2. Chỉ số tiến bộ xã hội (The Social Progress Index - SPI)
Chỉ số tiến bộ xã hội lần đầu tiên được công bố năm 2013 bởi các nhà nghiên cứu của tổ chức Đòi hỏi tiến bộ xã hội (Social Progress Imperative) cho 76 quốc gia, và đến nay đã liên tiếp có các báo cáo cho năm 2014, 2015, 2016 với 133 quốc gia cung cấp dữ liệu để tính toán và so sánh quốc tế, hiện vẫn còn 60 quốc gia chưa cung cấp đầy đủ dữ liệu, trong đó có Việt Nam. Khung lý luận của chỉ số tiến bộ xã hội được tổng hợp từ các công trình của Amartya Sen tập trung nhấn mạnh vai trò của các tổ chức trong việc định hình hoạt động kinh tế và xã hội như North (1990); Acemoglu và Robinson (2012)[1].
Theo các nhà nghiên cứu về SPI, tiến bộ xã hội được định nghĩa là năng lực của một xã hội trong việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người dân, thiết lập các trụ cột cho phép công dân và cộng đồng tăng cường, duy trì chất lượng cuộc sống của họ, đồng thời tạo điều kiện cho tất cả các cá nhân đạt được đầy dủ tiềm năng của mình. Xuất phát từ quan điểm về tiến bộ xã hội đổi chỉ số tiến bộ xã hội được xây dựng bao gồm ba khía cạnh chính:
- Mọi người có đủ nhu cầu cơ bản để tồn tại hay không thức ăn, nước, chỗ ở, sự an toàn;
- Liệu mọi người có thể cải thiện đời sống của họ ở các phương diện sau hay không giáo dục, thông tin, y tế và môi trường bền vững;
- Liệu mỗi cá nhân có cơ hội theo đuổi mục tiêu và giấc mơ, hoài bão mà không gặp cản trở để có quyền tự do lựa chọn, không bị phân biệt đối xử và tiếp cận những thông tin tiến bộ nhất của thế giới.
Tổng hợp 12 thành phần của chỉ số tiến bộ xã hội tạo nên khuôn khổ của sự tiến bộ xã hội được thể hiện trong Bảng 1.8 và mỗi thành phần lại được đánh giá theo các chỉ số phù hợp, có tính khả thi về kết quả đạt được của mỗi thành phần đó. Hiện nay có 52 chỉ số bộ phận cấu thành chỉ số tiến bộ xã hội chung.
Khung cơ bản của chỉ số tiến bộ xã hội tập trung chủ yếu vào các phương diện phi kinh tế về thành tựu phát triển của một quốc gia. Cách tiếp cận này tập trung vào các chỉ số kết quả, chứ không phải chỉ tiêu đầu vào, do đó có những khác biệt so với các thước đo kinh tế truyền thống.
Bảng Các chỉ tiêu cụ thể trong khung chỉ số tiến bộ xã hội[2]
Chỉ số tiến bộ xã hội | ||
Dinh dưỡng và chăm sóc y tế cơ bản: - Suy dinh dưỡng - Mức độ thiếu hụt lương thực - Tỷ lệ tử vong bà mẹ - Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh - Tỷ lệ tử vong do các bệnh truyền nhiễm |
Tiếp cận kiến thức cơ bản: - Tỷ lệ người lớn biết chữ - Tủ lệ nhập học tiểu học - Tỷ lệ nhập học trung học cơ sở - Tỷ lệ nhập học trung howcj cơ sở chia theo giới tính |
Quyền cá nhân: - Các quyền chính trị - Tự do ngôn luận - Tự do hội họp/lập hội - Quyền tự do di chuyển - Quyền sở hữu tư nhân |
Nước và vệ sinh: - Tiếp cận với nước máy - Tiếp cận của khu vực nông thôn với nguồn nước sạch - Tiếp cận với điều kiện vệ sinh tốt |
Tiếp cận với thông tin và truyền thông: - Số thuê bao điện thoại di động - Số người sử dụng internet - Chỉ số tự do báo chí |
Tự di và lựa chọn cá nhân: - Tự do lựa chọn cuộc sống - Tự do tôn giáo - kết hôn sớm - Tự do lựa chọn biện pháp tránh thai - Tham nhũng. |
Nơi ở: - Mức độ sẵn có của các tòa nhà thu nhập thấp - Có điện cho sử dụng - Chất lượng điện cung cấp - Ô nhiễm không khí trong gia đình. |
Y tế và sức khỏe: - Tuổi thọ đạt 60 trở lên - Số/tỷ lệ người chết vì các bệnh không lây nhiễm. - Tỷ lệ béo phì - Tỷ lệ tự sát. |
Lòng khoan dung và gắn kết xã hội: - Khoan dung với người nhập cư. - Khoan dung với người đồng tính - Không phân biệt đối xử với đồng bào dân tộc thiểu số. - Bảo đảm tự do tôn giáo - Có hệ thống an sinh xã hội cộng đồng. |
Chỉ số tiến bộ xã hội là kết quả của một loạt các sáng kiến gắn đây trong xu hướng nghiên cứu các thước đo đánh giá thành quả của quá trình phát triển "không chỉ có GDP”. Trong khi chỉ số phát triển con người (HDI) chỉ tập trung vào tuổi thọ, trình độ học vấn và thu nhập thì chỉ số tiến bộ xã hội bao gồm phạm vi rộng lớn hơn của các yếu tố tác động đến tiến bộ xã hội tổng thể, từ mức độ an toàn cá nhân, ở phương diện các nhu cầu cơ bản của con người đến khả năng tiếp cận thông tin và truyền thông ở phương diện nền tảng phúc lợi xã hội cho đến sự bao dung và gắn kết xã hội ở phương diện cơ hội phát triển. Hơn nữa, các khía cạnh phản ánh trong chỉ số tiến bộ xã hội phản ánh đầy đủ các cấp độ nhu cầu theo quan điểm tháp nhu cầu của Maslow, và do đó thích hợp đối với cả nước đang phát triển và các nước phát triển.
Chỉ số tiến bộ xã hội cung cấp một chuẩn mực hữu ích để các nước có thể so sinh với các quốc gia khác và xác định được những mặt mạnh, mặt yếu trong sự phát triển hiện tại của các quốc gia. Chỉ số này không chỉ cho phép các nhà hoạch định chính sách so sánh thành tựu phát triển trên chỉ số tổng hợp mà còn tìm ra các điểm tương đồng và khác biệt giữa các quốc gia về từng phương diện và thành phần cụ thể. Dựa trên 52 chỉ báo về hiệu suất hoạt động xã hội của một quốc gia, SPI cung cấp một công cụ thiết thực cho chính phủ và các nhà lãnh đạo đối sánh hiệu suất hoạt động của quốc gia và ưu tiên cho những lĩnh vực xã hội cần cai thiện nhất. Do đó SPI cung cấp một cơ sở mang tính hệ thống, thực nghiệm để hướng dẫn xây dựng chiến lược vì sự phát triển toàn diện.
Sự quan tâm đối với SPI đã gia tăng theo cấp số nhân từ khi phiên bản thử nghiệm đầu tiên được công bố vào năm 2012. Những phát hiện về SPI đã được chia sẻ cho hàng triệu người dân trên thế giới, biến nó thành một công cụ để người dân chất vấn trách nhiệm giải trình của các nhà quản lý. Hơn nữa, các sáng kiến chiến lược để thúc đẩy sự cải thiện về tiến bộ xã hội đã được triển khai tại hơn 40 quốc gia. Ví dụ, Paraguay đã áp dụng SPI để hướng dẫn một kế hoạch phát triển toàn diện cấp quốc gia đến năm 2030. SPI không chỉ được sử dụng ở cấp quốc gia, mà còn ở cấp vùng và các thành phố. Một số bang như bang Para ở Brazil, một số thành phố như Bogota và Rio de Janeiro ở Mỹ Latinh và Somerville ở bang Massachusetts ở Hoa Kỳ đã bắt đầu sử dụng SPI như là một thước đo mức độ thành công của sự phát triển. Năm 2016, Ủy ban châu Âu đã khởi động việc áp dụng SPI trên khắp châu Âu. Một số công ty như Coca - Cola và Natura, đã sử dụng SPI để thông báo các chiến lược đầu tư xã hội của họ và xây dựng các mối quan hệ hợp tác với các đối tác cũng như kêu gọi sự ủng hộ của cộng đồng.
Nguồn dữ liệu tính toán chỉ số tiến bộ xã hội được dựa trên dữ liệu chính thức của các tổ chức phát triển có uy tín. Tuy nhiên, nhiều chỉ tiêu của SPT mang tính định tính và thể hiện sự cảm nhận chủ quan, khó lượng hóa, tính toán tương đối phức tạp như lòng khoan dung, sự tự do, vv… nên không nhiều quốc gia quan tâm lựa chọn chỉ số này.
[1] Xem The Social Progress Index 2013, p 43
[2] Nguồn: http://www socinlprogressimperative org/wp-content/ uploads/2016/07/SP1-2016-Methodological-Report.pdf