Biểu hiện của biến đổi khí hậu:
Theo đánh giá lần thứ 4 của Ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC, 2007), sự nóng lên của hệ thống khí hậu trái đất hiện nay là chưa từng có, điều đó đã được minh chứng từ những quan trắc về sự tăng lên của nhiệt độ không khí và đại dương trung bình toàn cầu, sự tan chảy băng và tuyết trên phạm vi rộng lớn, sự dâng lên của mực nước biển trung bình toàn cầu.
1. Biến đổi của nhiệt độ
Từ khoảng giữa thế kỷ XIX, nhờ đo đạc chính xác bằng các dụng cụ, chúng ta mới có được số liệu định lượng chi tiết về biến đổi khí hậu trong hơn một thế kỷ qua. Những số liệu có được cho thấy xu thế chung là từ cuối thế kỷ XIX đến nay, nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng lên đáng kể. Kết quả đo đạc và nghiên cứu hiện nay cho thấy, nhiệt độ không khí trung bình toàn cầu trong thế kỷ XX đã tăng lên 0,6°C (± 0,2°C). Trên đất liền, nhiệt độ tăng nhiều hơn trên biểnvà thập kỷ 1990 là thập kỷ nóng nhất trong thiên niên kỷ vừa qua (theo IPCC- Ủy ban liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu, 2001).
Nhiệt độ trung bình trái đất đã tăng lên rõ rệt trong giai đoạn 1920-1940, giảm dần khoảng giữa những năm 1960 và lại ấm lên từ sau năm 1975. Đây là thời kỳ nhiệt độ ấm nhất trong vòng 600 năm tính đến cuối thế kỷ XX.
Trong thế kỷ XX, trên khắp các châu lục và đại dương nhiệt độ có xu thế tăng lên rõ rệt. Độ lệch tiêu chuẩn của nhiệt độ trung bình toàn cầu là 0,24°C, sai khác và lớn nhất giữa hai năm liên tiếp là 0,29°C (giữa năm 1976 năm 1977), tốc độ của xu thể biến đổi nhiệt độ cả thế kỷ là0,75°C, nhanh hơn bất kỳ thế kỷ nào trong lịch sử, kể từ thế kỷ XI đến nay[1].
Vào 5 thập kỷ gần đây (1956 - 2005), nhiệt độ tăng 0,64°C± 0,13°C, gấp đôi thế kỷ XX. Rõ ràng là xu thế biến đổi nhiệtđộ ngày càng có chiều hướng tăng nhanh hơn. Giai đoạn 1995 - 2006 có 11 năm (trừ 1996) được xếp vào danh sách 12 năm nhiệt độ cao nhất trong lịch sử quan trắc nhiệt độ kể từ năm 1850, trong đó nóng nhất là năm 1998 và năm 2005. Riêng 5 năm 2001 – 2005 có nhiệt độ trung bình cao hơn 0,44°C so với chuẩn trung bình của thời kỳ 1961 – 1990.
Ngày 18/01/2017, Cơ quan Hàng không và Không gian Hoa Kỳ (NASA) và Cơ quan quản lý khí quyển và đại dương Mỹ (NOAA) đã tuyên bố “2016 là năm nóng nhất trên toàn cầu từng được ghi nhận”. Tuy nhiên hiện tượng ấm lên toàn cầu có thể biến năm 2019 thành năm nóng nhất - các nhà khoa học nhận định[2].
Đáng lưu ý là, mức tăng nhiệt độ của Bắc cực gấp đôi mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu.
Nhiệt độ cực trị cũng có xu thế phù hợp với nhiệt độ trung bình. Số đêm lạnh giảm đi và số ngày nóng tăng lên; biên độ nhiệt độ ngày giảm đi chừng 0,07°C mỗi thập kỷ.
2. Biến đổi của mưa
Về mưa, cũng có những biến động đáng kể, tuy xu thế không rõ rệt như nhiệt độ. Trong thời kỳ 1901 - 2005, xu thế biến đổi của lượng mưa rất khác nhau giữa các khu vực và giữa các tiểu khu vực trêntừng khu vực và giữa các thời đoạn khác nhau trên từng tiểukhu vực.
Ở Bắc Mỹ, lượng mưa tăng lên ở nhiều nơi, nhất là ở Bắc Canađa nhưng lại giảm đi ở Tây Nam nước Mỹ, Đông Bắc Mêhicô và bán đảo Baja với tốc độ giảm chừng 2% mỗi thập kỷ, gây ra hạn hán trong nhiều năm gần đây.
Ở Nam Mỹ, lượng mưa lại tăng lên trên lưu vực Amazon nhưng lại giảm đi ở Chilê và vùng bờ biển phía Tây. Đơn Ở châu Phi, lượng mưa giảm ở Nam Phi, đặc biệt là ở Sahen trong thời đoạn 1960–1980.
Ở khu vực nhiệt đới, lượng mưa giảm đi ở Nam Á và TâyPhi với trị số xu thế là 7,5% cho cả thời kỳ 1901 - 2005. Khuvực có tính địa phương rõ rệt nhất trong xu thế biến đổi lượngmưa là Ôxtrâylia do tác động to lớn của hiện tượng ENSO.
Ở đới vĩ độ trung bình và vĩ độ cao, lượng mưa tăng lên rõ rệt ở miền Trung Bắc Mỹ, Đông Bắc Mỹ, Bắc Âu, Bắc Á và Trung Á.
Trên phạm vi toàn cầu lượng mưa tăng lên ở các đới phía Bắc vĩ độ 30°N thời kỳ 1901-2005 và giảm đi ở các vĩ độ nhiệt đới, kể từ thập kỷ 1990.Tần số mưa lớn tăng lên trên nhiều khu vực, kể cả những nơi lượng mưa có xu thế giảm[3].
3. Hạn hán và lũ lụt
Ở bán cầu Bắc, xu thế hạn hán phổ biến từ giữa thập kỷ 1950 trên phần lớn vùng Bắc Phi, đặc biệt là Sahel, Canađa và Alaska. Ở bán cầu Nam, hạn rõ rệt trong những năm từ 1974 den 1998.
Ở miền Tây nước Mỹ, mặc dù lượng mưa có xu thế tăng lên trong nhiều thập kỷ gần đây nhưng hạn nặng xảy ra từ năm 1999 đến cuối năm 2004.
Dòng chảy của hầu hết sông trên thế giới đều có những biến đổi sâu sắc từ thập kỷ này sang thập kỷ khác và giữa các năm trong từng thập kỷ. Dòng chảy tăng lên trên nhiềulưu vực sông thuộc Mỹ song lại giảm đi ở nhiều lưu vực sông thuộc Canada trong 30 - 50 năm gần đây. Trên lưu vực sông Lena ở Xibiri cũng có sự gia tăng dòngchảy đồng thời với nhiệt độ tăng lên và lớp băng phủ giảm đi.
Ở lưu vực sông Hoàng Hà, dòng chảy giảm đi rõ rệt trongnhững năm cuối thế kỷ XX do lượng nước tiêu thụ tăng lên,nhiệt độ và lượng bốc hơi tăng lên trong khi lượng mưakhông có xu thế tăng hay giảm. Ở châu Phi dòng chảy các sống ở Nigiê, Xenêgan và Dāmbia đều giảm.
4. Xu thế biến đổi của mực nước biển
Tương ứng với sự tăng của nhiệt độ toàn cầu, mực nước trung bình của đại dương trong thế kỷ qua cũng tăng lên 10 - 25cm. Xu thế tăng của mực nước như vậy là lớn, đặc biệt là trong vòng 15 năm cuối cùng.
Có thể thấy rằng, mực nước biển dâng cao với tốc độ trung bình là 1,8 mm/năm trong thế kỷ qua. Trong kỷ nguyên sử dụng vệ tinh đo độ cao để xác định mực nước biển cho thấy, từ năm 1993 đến 2000, mực nước biển đã dảng vào khoảng 2,9-3,4 ± 0,4-0,6 mm/năm. Mực nước biển dâng có thể do hiện tượng ấm lên toàn cầu, mà phần lớn là từ những tác động của con người. Điều này sẽ làm tăng mực nước biển trong tương lai về lâu dài. Nhiệt độ gia tăng làm nước giãn nở, đồng thời làm tan chảy các sông băng, núi băng và băng lục địa khiến lượng nước bổ sung vào đại dương tăng lên.
[1]Xem Nguyễn Văn Tháng, Nguyễn Trọng Hiệu, Trần Thục: Biến đổi khí hậu và tác động ở Việt Nam, Nxb, Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2010.
[2]Theo báo mới com, truy cập ngày 14/5/2019: Năm 2019 có thể là năm nóng nhất trong lịch sử nhân loại.
[3]Xem Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Trọng Hiệu, Trần Thục: Biến đổi khí hậu và tác động ở Việt Nam, Nhà xuất bản, Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, năm 2010