Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới (NTM) sau 9 năm thực hiện đã mang lại sự đổi mới diện mạo làng quê; đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn ở hầu khắp các địa phương đổi mới rõ nét: Hạ tầng cơ sở nông thôn được đầu tư, nâng cấp đáng kể; hầu hết các địa phương đã tiến hành cơ cấu lại sản xuất nhằm phát huy thế mạnh mang tính đặc thù của địa phương; cùng với đó là sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế nông thôn; thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn được nâng lên, giảm đáng kể tỷ lệ hộ nghèo; cảnh quan môi trường ở nhiều vùng nôn thôn đã thực sự sáng, xanh, sạch, đẹp; đời sống văn hóa tinh thân của người dân nông thôn được nâng cao về chất lượng và đảm bảo an ninh trật tự.
Để triển khai thực hiện Chương trình giai đoạn 2010- 2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu với Bộ Chính trị, Chính phủ ban hành; đồng thời xây dựng ban hành theo thẩm quyền hệ thống văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các nhiệm vụ thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo; trên cơ sở đó, các địa phương có căn cứ để xây dựng Kế hoạch chi tiết và tổ chức triển khai thực hiện.
Qua 9 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã mạng lại những kết quả được ghi nhận như: điều kiện cơ sở vật chất và thiết bị dạy học trong các cơ sở giáo dục đã được quan tâm đầu tư xây mới; cải tạo nâng cấp, sửa chữa; mua sắm bổ sung, thay thế góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở cơ sở. Tuy nhiên, việc đầu tư cho cơ sở vật chất, thiết bị trường học trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông của cả nước và 7 vùng đều chưa đáp ứng yêu cầu và mục tiêu đề ra. Cụ thể cả nước (53,79% so với 80%); các vùng: Trung du miền núi phía Bắc (39,93% so với 70%); Đồng bằng sông Hồng (81,74% so với 100%); Bắc Trung Bộ (53,8% so với 80%); Duyên hải Nam Trung Bộ (40,06% so với 80%); Tây Nguyên (38,84% so với 70%); Đông Nam Bộ (49,8% so với 100%); Đồng Bằng sông Cửu Long (52,94% so với 70%).
Ban chỉ đạo phổ cập giáo dục ở các địa phương đã tích cực, chủ động tham mưu với các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương tổ chức; xây dựng kế hoạch, tập trung mọi nguồn lực với giải pháp tích cực để củng cố, duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục, xóa mù chữ vững chắc và phấn đấu đạt chuẩn mức độ cao hơn để nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học.
Các cơ sở giáo dục đã có nhiều biện pháp và tạo các điều kiện để huy động tối đa trẻ em trong độ tuổi vào học tiểu học tại địa bàn, nhất là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và trẻ em khuyết tật được đi học và hoàn thành chương trình tiểu học. Thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra công nhận, công nhận lại các đơn vị đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục, xóa mù chữ theo các mức độ để đảm bảo phản ánh đúng tình hình thực tế, thực chất kết quả công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ; triển khai thực hiện hệ thống thông tin quản lí phổ cập giáo dục, xóa mù chữ đồng bộ, hiệu quả.
Từ kết quả nêu trên, việc phân tích chính sách giáo dục trong chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm mục đích lựa chọn phương án chính sách hiệu quả để tiếp tục triển khai cho giai đoạn sau, vì vậy cần phân tích làm rõ vấn đề cần giải quyết. Rõ ràng, bao giờ cũng vậy, một chính sách được xây dựng, ban hành và đưa vào thực hiện nhằm giải quyết một vấn đề thực tiễn cụ thể. Do vậy, khi phân tích chính sách giáo dục trong chương trình xây dựng nông thôn mới, việc đầu tiên các đại biểu dân cử phải nhận dạng, mô tả, xem xét chính xác chính sách cần phân tích các tiêu chí được đề ra và số liệu đã thực hiện để giải quyết vấn đề gì, vấn đề đó có đưa vào vấn đề, mục tiêu cấp bách hay không (hoặc cấp bách đến mức độ nào), bản thân vấn đề này có được các nhà hoạch định chính sách nhận dạng đúng hay không, có được mô tả, trình bày và giải quyết đúng, nhất quán hay không và có được các chủ thể liên quan, đặc biệt là các chủ thể có trách nhiệm thực thi chính sách đó nhận thức đúng, đồng nhất với nhận dạng vấn đề của các nhà hoạch định chính sách hay không? Ở Việt Nam, nhiều cán bộ quản lý cũng như các nhà hoạch định, phân tích chính sách nhận xét rằng một số chính sách “không đi vào cuộc sống" phần nhiều là có nguyên nhân từ chỗ nhận dạng vấn đề, hiểu vấn đề và mục tiêu giải quyết vấn đề không rõ ràng, không đồng nhất và không nhất quán giữa các chủ thể liên quan. Để giải quyết vấn đề này cần căn cứ vào những tiêu chí cụ thể dưới đây:
Tính phù hợp của một chính sách thường được phân tích, đánh giá trước tiên bởi nó quyết định các nội dung khác của chính sách đó. Chính sách giáo dục trong chương trình xây dựng nông thôn mới sẽ được coi là “không phù hợp", nếu nó không hướng tới nhu cầu cấp thiết của xã hội, kết quả thực hiện chính sách giáo dục trong chương trình xây dựng nông thôn mới có nhiều đến đầu cũng không đem lại lợi ích như kỳ vọng. Lúc đó, vấn đề hiệu quả thực hiện chính sách và tác động của chính sách đó cũng không còn quan trọng nữa. Tính phù hợp có thể được xem xét đối với toàn bộ chính sách giáo dục trên cơ sở đánh giá tính phù hợp tổng thể hoặc đối với từng nội dung, từng yếu tố cấu thành chính sách giáo dục trong chương trình xây dựng nông thôn mới theo cách đánh giá tính phù hợp riêng rẽ/đơn lẻ.
Đánh giá một cách tổng thế, tính phù hợp của chính sách giáo dục trong chương trình xây dựng nông thôn mới cần được xem xét trên những giác độ sau:
Thứ nhất, sự phù hợp của chính sách giáo dục với yêu cầu cấp bách của xã hội. Câu hỏi đặt ra là chính sách giáo dục được hoạch định và đưa vào thực hiện trong chương trình xây dựng nông thôn có thực sự cần thiết hay không, vấn đề mà nó định giải quyết có cấp bách không? hay cấp bách đến đâu? Về thực chất, đây chính là đánh giá về sự cần thiết phải xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách giáo dục trong chương trình xây dựng nông thôn mới.
Thứ hai, sự phù hợp giữa mục tiêu của chính sách giáo dục trong chương trình xây dựng nông thôn mới đối với đòi hỏi của xã hội. Câu hỏi đặt ra là mục tiêu của chính sách giáo dục có hướng tới những vấn đề mà xã hội thực sự cần giải quyết hay không và mức độ giải quyết vấn đề có phù hợp với yêu cầu cũng như điều kiện thực tế hay không?
Thứ ba, sự phù hợp giữa các kết quả mà chính sách giáo dục hướng tới với mục tiêu đặt ra trong chương trình xây dựng nông thôn mới. Câu hỏi cần trả lời ở đây là các kết quả mà chính sách hướng tới, mong muốn tạo ra có thực sựphù hợp với mục tiêu của chính sách hay không?
Thứ tư, sự phù hợp giữa các mục tiêu, kết quả mà chính sách giáo dục hướng tới với các chương trình hành động, các giải pháp cần được thực hiện trong khung khổ chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới cần được xác định như khía cạnh nào là phù hợp, khía cạnh nào không phù hợp và mức độ phù hợp/không phù hợp ra sao?
Thứ năm, sự phù hợp giữa mục tiêu, kết quả, các giải pháp của các hoạt động dự kiến sẽ triển khai thực hiện trong khung khổ chính sách giáo dục với những nguồn lực được huy động, được dành cho việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới? Câu hỏi này liên quan tới một nội dung rất cấp bách thuộc về tính khả thi của chính sách giáo dục. Nếu nguồn lực có đủ về số lượng, đáp ứng được yêu cầu về chủng loại và chất lượng, có thể được bảo đảm đúng thời gian và địa điểm thì về mặt này, chính sách có tính khả thi. Để một chính sách giáo dục có thể được thực hiện và được thực hiện thành công, bảo đảm đủ các nguồn lực theo đúng các yêu cầu về địa điểm, thời gian, đặc điểm và điều kiện sử dụng là chưa đủ. Do vậy, tính khả thi của chính sách, ngoài việc bảo đảm đủ nguồn lực thực hiện, còn bao gồm nhiều nội dung khác, ví dụ: cam kết của chính quyền địa phương về nỗ lực và quyết tâm thực hiện thành công chính sách giáo dục, sự ủng hộ của phụ huynh học sinh, sự tương thích của nó với các chính sách có liên quan trong chương trình mục tiêu quốc gia, điều kiện tiếp nhận và duy trì, phát huytác dụng của những kết quả, tác động do chính sách giáo dục tạo ra,...
Thứ sáu, sự phù hợp của việc xây dựng, ban hành, chỉ đạo thực hiện cũng như công tác giám sát, triển khai thực hiện chính sách giáo dục so với chức năng, nhiệm vụ, năng lực của các chủ thể có liên quan. Một trong những nội dung cần quan tâm, nghiên cứu và xem xét là phân tích xem chính sách giáo dục đã bảo đảm thu hút, tập hợp, lôi cuốn được tất cả những chủ thể có liên quan hay không? Ngoài ra, cũng cần xem xét xem các tiêu chí, các chỉ số theo dõi, giám sát và đánh giá về chính sách giáo dục có tương thích với các nội dung cần theo dõi, giám sát và đánh giá trong chương trình xây dựng nông thôn mới không?
Thứ bảy, sự phù hợp của quá trình xây dựng, ban hành chính sách giáo dục so với những quy định, quy tắc về việc xây dựng, ban hành các văn bản thể hiện trong chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Nếu không bảo đảm sự phù hợp này, chính sách giáo dục có thể sẽ không được triển khai hoặc gặp nhiều trắc trở, thậm chí có thể gây ra những rối loạn trong quá trình thực hiện vì nó không được ban hành, triển khai bằng những văn bản pháp luật có hiệu lực thi hành. Thực tiễn thời gian qua, nhiều chủ trương, chính sách được coi là phù hợp, có triển vọng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nhưng không được triển khai tốt bởi chưa được luật hóa. Thậm chí nhiều văn bản luật rất tiến bộ đã được ban hành nhưng rất chậm được thực hiện do không có những văn bản hướng dẫn dưới luật.
Thứ tám, tính tương thích giữa mục tiêu, kết quả và giải pháp của chính sách giáo dục so với các chính sách khác trong chương trình xây dựng nông thôn mới. Trên thực tế đây là nhiệm vụ rất khó khăn vì nó đòi hỏi phải so sánh, đối chiếu các nội dung của chính sách giáo dục khi phân tích, đánh giá và các văn bản thể hiện chúng với toàn bộ hệ thống các chính sách hiện hành, tức là phải xác định toàn bộ những văn bản thể hiện những nội dung của các chính sách hiện hành và so sánh những nội dung cụ thể trong các văn bản đó với nội dung của chính sách giáo dục trong xây dựng nông thôn mới cần phân tích, đánh giá.
Từ thực tiễn khái quát và đánh giá trong quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới thì tính phù hợp của chính sách giáo dục và đào tạo luôn được coi là một ưu tiên trong phát triển của các địa phương, thường chỉ đứng sau mục tiêu về cơ sở hạ tầng kinh tế (đường giao thông, điện, nước…). Tuy nhiên, do ngân sách hạn hẹp hoặc có địa phương chưa thực sự quan tâm đúng mức, nên chỉ tập trung kinh phí cho ưu tiên thứ nhất đã không đủ tiền, dẫn đến trên thực tế phần đầu tư cho giáo dục và đào tạo hạn hẹp, chỉ chủ yếu nhằm giúp các trường “đạt chuẩn” để đủ tiêu chuẩn được công nhận là xã nông thôn mới; thậm chí có địa phương còn tồn tại tình trạng “nợ chuẩn” đối với tiêu chí về cơ sở vật chất, thiết bị trường học.
Những nội dung trên có thể phân tích đánh giá một cách tập trung đối với chương trình xây dựng nông thôn mới hay được trình bày riêng rẽ theo từng nội dung, từng lĩnh vực hoặc từng vấn đề của chương trình xây dựng nông thôn mới trong đó có chính sách giáo dục.. Trong trường hợp nhiệm vụ đánh giá chính sách giáo dục không đòi hỏi đánh giá một cách toàn diện, mà chỉ đề cập tới một hoặc một số nội dung không liên quan tới tính phù hợp của chính sách (ví dụ: đánh giá riêng về kết quả thực hiện chính sách giáo dục, về tác động của chính sách giáo dục hoặc những rủi ro trong quá trìnhtiếp tục thực hiện chính sách giáo dục,...) thì việc đánh giá tính phù hợp của chính sách vẫn là cần thiết bởi nó giúp lý giải tại sao kết quả, hiệu quả hoặc tác động của chính sách giáo dục lại đạt được ở mức độ như ghi nhận trong thực tế.
Có thể nhận thấy, đặc điểm của chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một chương trình lồng ghép, đa mục tiêu và phân cấp rất mạnh về cho cấp cơ sở (xã và huyện). Cách thiết kế này có ưu điểm phát huy tính tự chủ và tự quyết của địa phương, trong đó nhấn mạnh nguyên tắc quản lý theo lãnh thổ, nhưng lại khiến việc chỉ đạo, định hướng và kiểm tra, giám sát rất khó khăn. Bên cạnh đó, Chương trình không hoàn toàn được thiết kế theo nguyên tắc quản lý theo kết quả nên việc đánh giá mức độ đạt được kết quả do nỗ lực trong nội bộ chương trình, có sự tách bạch khỏi các nỗ lực quản lý ngành ngay cả khi không có chương trình sẽ là không thực hiện được một cách chính xác.