In trang này
Thứ ba, 21 Tháng 9 2021 11:17

Giới thiệu khái quát về vai trò của Nhà nước trong tạo dựng khung pháp luật và môi trường cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Sự phát triển của Nhà nước và sự ra đời, phát triển của thị trường tạo nên mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Xét về góc độ lịch sử, thì lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường là lịch sử của quá trình giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Chính vì vậy, xin được giới thiệu vai trò của Nhà nước trong tạo dựng khung pháp luật và môi trường cho phát triển qua các mốc thời gian sau:

1. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1992

Trong lịch sử nền kinh tế cũng như thế chế pháp luật về kinh tế Việt Nam, năm 1986 là một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế với các nhân tố đầu tiên của kinh tế thị trường.

Trong thời kỳ này, Nhà nước Việt Nam đã sử dụng các hệ thống công cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế thị trường như: hệ thống pháp luật nhằm tạo ra “luật chơi” cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế: công tác kế hoạch và quy hoạch, nhằm hoạch định các mục tiêu và xác lập các phương tiện để đạt các mục tiêu để ra; các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, đặc biệt chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ: sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để bổ khuyết thị trường (trong đó quan trọng nhất là các loại dự trữ quốc gia). cung cấp dịch vụ và hàng hoá công cộng, hành chính công; sử dụng các công cụ hỗ trợ như thông tin, xúc tiến thương mại, cung cấp các dịch vụ sản xuất...

Về hệ thống pháp luật, nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng đã được ban hành như Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế... Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 là một trong những đạo luật đầu tiên đóng vai trò đột phá trong việc ấn định và thực hiện các quy định phù hợp với cơ chế thị trường, quy định chế độ cấp giấy phép, các hình thức tổ chức, phạm vi hoạt động, các hình thức ưu đãi đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp từ nhân năm 1990... lần đầu tiên thể chế hóa các hình thức doanh nghiệp và chủ thể kinh tế đồng thời tạo ra khung khổ cơ bản về hợp đồng cho các giao dịch thương mại. Tuy vậy, thể chế pháp luật về kinh tế trong giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế. Các hình thức sở hữu và chủ thể sở hữu vẫn bị bó hẹp trong khung khổ Hiến pháp năm 1980 với “chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất" và “một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể” (Điều 18 Hiến pháp năm 1980). Với khung khổ này, dù các chủ thể kinh doanh tư nhân đầu tiên đã được thừa nhận (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty, doanh nghiệp tư nhân) nhưng vị trí của họ trong nền kinh tế còn rất hạn chế, pháp luật mới chỉ cho họ những quyền kinh doanh hạn chế, bị bó buộc bởi các yêu cầu bắt buộc mang tính can thiệp của Nhà nước trong thủ tục thành lập, xác định số vốn tối thiểu, chỉ định vị trí lãnh đạo, ra quyết định kinh doanh, ký kết hợp đồng giao dịch, phân bổ và sử dụng lợi nhuận. Thông qua các quy định này, pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh tế thể hiện rõ tính hành chính (với sự can thiệp khá sâu của Nhà nước vào những hoạt động kinh tế và sử dụng nhiều biện pháp quản lý hành chính).

2. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2001

Hiến pháp năm 1992 được Quốc hội thông qua tháng 4/1992, sửa đổi căn bản chế định về kinh tế so với Hiến pháp năm 1980. Bản Hiến pháp này chính thức hiến định thể chế kinh tế thị trường. Các văn bản pháp luật quan trọng, làm trụ cột cho nền kinh tế thị trường cũng lần lượt được xây dựng trong thời gian này, có thể kể đến như: Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại.

Trong các văn bản này, các quy định được thiết kế theo hưởng thừa nhận sự tồn tại hợp pháp của khu vực kinh tế tư nhân, xây dựng nền kinh tế với sự tham gia của các chủ thể kinh doanh tư nhân (thương nhân, doanh nghiệp), giảm dần vai trò tuyệt đối của khu vực quốc doanh, tạo khung khổ linh hoạt, tăng quyền thỏa thuận trong các giao dịch kinh doanh. Điều này đã có tác dụng rất lớn đối với việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam. Luật Doanh nghiệp năm 1999 có thể được xem là một thành tựu nổi bật của hệ thống pháp luật kinh tế Việt Nam giai đoạn này với việc thiết lập một khung pháp lý an toàn, tổng thể và hiện đại về các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong đó các hình thức doanh nghiệp chính yếu đã được ghi nhận, thủ tục thành lập doanh nghiệp được thiết kế thuận lợi hơn, các vấn đề về quan trị và vận hành doanh nghiệp được xây dựng gần hơn với thông lệ quản trị doanh nghiệp quốc tế. Đây là giai đoạn mà pháp luật về kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, cổ vũ bởi những thành công của phát triển kinh tế thị trường giai đoạn đầu và những đòi hỏi cấp thiết của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với việc Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) (1995), bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ (năm 1995) và ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ - BTA (năm 2001). So với giai đoạn trước đó, thế chế pháp luật về kinh tế thị trường Việt Nam đã có những bước chuyển biến cơ bản, tính "thị trường" được chủ trọng hơn, trên cơ sở đó các thị trường vốn, lao động và các thị trường chuyên ngành được hình thành và phát triển. Mặc dù vậy, quyền sử dụng và chuyển giao các tư liệu sản xuất quan trọng (ví dụ đất đai, tài nguyên nước) vẫn bị giới hạn đáng kể, quản trị doanh nghiệp bị ràng buộc bởi những yêu cầu thiếu linh hoạt và phi thị trường, ví dụ về vốn điều lệ tối thiểu, về nhiều loại giấy phép kinh doanh phải có, về vị trí lãnh đạo chủ chốt trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các giao dịch thương mại chưa thực sự tôn trọng quyền tự do thỏa thuận, ví dụ các hợp đồng thương mại phải tuân thủ các nội dung bắt buộc.

3. Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2013

Năm 2001, Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, trong đó có các điều chỉnh về chế độ kinh tế. Lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh được thừa nhận, dù vẫn bị ràng buộc bởi giới hạn theo quy định của pháp luật”. Năm 2001 cũng là năm Việt Nam phê chuẩn Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, mở dầu cho giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Hội nhập cũng chính là nét đặc điểm chủ yếu của giai đoạn này, với những dấu ấn đặc biệt trong thể chế pháp luật về kinh tế Việt Nam. Một loạt các văn bản pháp luật có ý nghĩa rưởng cột cho nền kinh tế như Luật Đất đai năm 2009. Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu từ năm 2005, Luật Thương mại năm 2005, các luật về thuế, các luật chuyên ngành (ví dụ vận tải, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, kiểm toán)... đã được xây dựng mới hoặc sửa đổi tổng thể, định hình một hệ thống thể chế pháp luật kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa triệt để hơn và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế trong các lĩnh vực.

Một thay đổi có tính định hướng khác là chủ trương áp dụng án lệ. Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trong đó xác định chủ trương về phát triển án lệ: Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp. góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng xác định: Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.

Các văn bản quy phạm pháp luật trong thời kỳ này cũng được sửa đổi theo các tiêu chuẩn quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế liên quan, phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn này, đặc biệt là các cam kết về thể chế kinh tế trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Có thể khẳng định đây là giai đoạn mà pháp luật về kinh doanh của Việt Nam có bước hoàn thiện mạnh mẽ và tiến bộ nhất trong lịch sử phát triển từ trước tới thời điểm này. Hệ thống pháp luật không chỉ được mà theo chiều rộng nhằm bảo đảm sự phát triển an toàn của tất cả các hoạt động kinh doanh (với việc ban hành các luật riêng trong từng lĩnh vực kinh doanh) mà còn được hoàn thiện theo chiều sâu, phù hợp với các đòi hỏi kinh tế thị trường theo thông lệ quốc tế (thông qua việc thiết kế các quy định trong các luật chung theo hướng tôn trọng quyền tự do quyết định, thỏa thuận của các chủ thể và tương thích với các chuẩn mực quốc tế liên quan).

Tuy nhiên, từ sau những năm 2008-2009, nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn khó khăn, ảnh hưởng đáng kể tới phát triển kinh tế của Việt Nam đồng thời đặt những đòi hỏi mới về cải cách và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Hệ thống pháp luật kinh tế Việt Nam bị đặt trước những thách thức mới trong việc tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh (đặc biệt thông qua các cải cách thủ tục hành chính trong thành lập doanh nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu, kinh doanh trên thị trường) và tiếp tục điều chỉnh các quy định pháp luật cho phù hợp với các xu hướng mới trong thông lệ pháp luật quốc tế về kinh doanh.

4. Giai đoạn từ sau năm 2013

Hiến pháp năm 2013 đánh dấu một bước phát triển mới trong thể chế pháp luật về kinh tế với việc ghi nhận mạnh mẽ quyền tự do kinh doanh của người dân ở các ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Và mặc dù vẫn tiếp tục quy định kinh tế nhà nước là chủ đạo, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Hiến pháp năm 2013 khảng định quyển được đổi xử bình đẳng của các chủ thể kinh tế.

Thời kỳ sau năm 2013 cũng là thời kỳ Việt Nam hội nhập sáu hơn vào nền kinh tế thế giới, với việc đàm phán một loạt các hiệp định thương mại tự do quan trọng như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiên bỏ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP, các định thương mại tự do với EU, Liên minh thuế quan Nga Belarus-Karzakstan..). Hiện thực hóa các nguyên tắc mới sửa đổi trong Hiến pháp năm 2013, đồng thời với việc tiếp tục cải cách sâu rộng thể chế pháp luật về kinh tế, làm nền tảng cho giai đoạn phát triển và hội nhập tiếp theo, với sự sửa đổi, bổ sung của một loạt các văn bản pháp luật quan trọng như Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Phá sản năm 2014, Luật Đấu thầu năm 2013, các luật về thuế,, thậm chí các văn ban gắn với các thị trường chuyên biệt (Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Xây dựng năm 2014...).

Thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013[1], Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014, quy định Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử. Ngày 26/10/2015 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ghi nhận việc áp dụng án lệ và lẽ công bằng trong xét xử:

Khoản 2 Điều 6 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật Dân sự năm 2015, án lệ, lẽ công bằng.

Theo khoản 3 Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật. Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố.

 


[1] Điều 104 Hiến pháp năm 2013 quy định: Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thông nhất pháp luật trong xét xử.