Thứ sáu, 22 Tháng 10 2021 16:22

Một số vấn đề về chiến lược kinh tế xanh của Cộng hòa Liên bang Đức

Nhiều nước công nghiệp hóa, trong đó có Cộng hòa Liên bang Đức và một số nền kinh tế đang nổi lên đã nhận ra tiềm năng của các hệ thống sản xuất hiệu quả về mặt môi trường, hiệu quả về mặt tài nguyên và đang làm việc cụ thể để thúc đẩy các lĩnh vực đổi mới về kinh tế của nền kinh tế. Cùng các đường hướng tương tự, UNEP đã tuyên bố một Hiệp định New Green New Deal, vượt xa ranh giới của các nước công nghiệp hóa và đang tạo ra động lực phát triển trên toàn cầu. OECD đang kêu gọi các chiến lược tăng trưởng kinh tế nhằm giúp các quá trình kinh tế xanh hiện tại và tạo ra nhiều cơ hội việc làm và thu nhập hơn.

Từ đống đổ nát và tro tàn sau Chiến tranh thế giới thứ hại, Đức và Nhật Bản đã vươn lên để trở thành những cường quốc kinh tế toàn cầu chỉ trong vài thập kỷ. Những yếu tố nào thúc đẩy tăng trưởng ngoài các chính sách của chính phủ.

Có thể thấy rằng, ở cả hai quốc gia này, sự phát triển kinh tế xuất phát từ các doanh nghiệp có người lao động trung thành, nhờ vào lời hứa về mức lương cao và công việc trọn đời, cũng như việc sản xuất những sản phẩm tiên tiến được xuất khẩu đi toàn thế giới.

Những công ty như Volkswagen, Siemens và Thyssen hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất phương tiện tự động, điện tử và kỹ thuật của Cộng hòa Liên bang Đức, đều được coi là những trụ cột của tăng trưởng kinh tế sau chiến tranh.

Như vậy có thể nhận biết rằng, người lao động là nhân tố vô cùng quan trọng đối với phát triển kinh tế, tiếp đó là các chính phần quan sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đối với người Đức, chất lượng sản phẩm mới quan trọng, giá cả không thành vấn đề, vì thế chất lượng hàng hóa của Đức luôn đứng đầu thế giới.

Nếu như năm 1968, Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai (chỉ đứng sau Hoa Kỳ) với tốc độ tăng trưởng trung bình lên đến 9%/năm trong giai đoạn 1955-1973, thì “phép màu” kinh tế của Cộng hòa Liên bang Đức còn xảy ra sớm hơn, khi Tây Đức đã trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới từ những năm 1950. Và những thành quả đạt được của các quốc gia này (trong đó có Đức) là nhờ chính phủ có những chính sách coi trọng bảo vệ thiên nhiên, môi trường, phát triển bền vững. Một trong những chính sách đó là hướng tới một nền kinh tế “năng lượng xanh”.

Nền kinh tế “năng lượng xanh” là nền kinh tế sử dụng 100% năng lượng tái tạo, năng lượng sinh học, giảm tiêu thụ xăng, dầu, giảm lượng phát thải các loại khí nhà kính….

Một trong những quốc gia đang nỗ lực để trở thành nền kinh tế “năng lượng xanh” là Đức[1]. Bộ Môi trường Đức đã công bố bản phác thảo lộ trình thực hiện các kế hoạch hướng đến nền kinh tế “năng lượng xanh”, với dự kiến sẽ tạo ra khoảng gần 900.000 việc làm mới vào năm 2030, trong ngành công nghệ xanh.

Theo đó, năm 2008, năng lượng tái tạo chỉ chiếm khoảng 7% tổng số lượng tiêu thụ năng lượng gốc, nhưng đến năm 2020 con số dự báo có thể tăng tới 33%, vượt lên nhiều quốc gia châu Âu trong việc phát triển năng lượng tái tạo.

Lộ trình nêu trên, có nhiều biện pháp, kế hoạch nâng cao hiệu suất năng lượng của quốc gia, trong đó xây dựng mạng lưới “điện thông minh”, giảm tiêu thụ điện năng khoảng 28% trong vòng 20 năm tới. Thực hiện kế hoạch giảm tiêu thụ điện năng, Đức sẽ giảm chi phí hàng tỷ USD chi trả cho nhập khẩu năng lượng.

Cũng theo lộ trình này thì đến năm 2022 ở Đức sẽ có 35% năng lượng điện tiêu thụ có nguồn gốc từ năng lượng tái tạo. Trong đó năng lượng sức gió đóng góp nhiều nhất, tới 15%; năng lượng sinh học 8%; thủy năng 4%. Ước tính đến năm 2030 Đức có tới 50% năng lượng điện tiêu thụ lấy từ nguồn năng lượng tái tạo. Dự báo trong 20 năm nữa, một “mạng lưới thông minh” kết nối với toàn bộ mạng lưới điện châu Âu sẽ được thiết lập.

Bản lộ trình của Đức đã lên kế hoạch cho biết đến năm 2020 xe hơi điện sẽ sử dụng pin sạc bằng năng lượng tái tạo,làm giảm nhu cầu tiêu thụ xăng dầu và làm giảm lượng phát thải các loại khí nhà kính.

Tại Đức, có nhiều tài nguyên, nguồn năng lượng tái t để thực hiện lộ trình “năng lượng xanh”. Nước này dự định sẽ dùng tất cả các nguồn năng lượng tái tạo mà mình có như sức gió, năng lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt và sinh khối.

Riêng tài nguyên gió ở Đức được khai thác tốt nhất. Dọc bờ biển phía Bắc là các bãi tuốcbin xa bờ khổng lồ, có khả năng sản xuất hơn 10.000 MW điện. Bên cạnh năng lượng tái tạo là năng lượng sinh học cũng sẽ đóng vai trò quan trọng trong ngành năng lượng quốc gia. Nguồn năng lượng sinh học phụ thuộc vào sự phát triển những loại cây trồng. nhưng loại cây này không cạnh tranh với các loại cây lương thực khác.

Bên cạnh năng lượng sinh học là sự phát triển với tốc độ nhanh của năng lượng sinh khối. Năng lượng sinh khối Đức năm 2008 đã cung cấp khoảng 3,7% lượng tiêu thụ điện[2].

Cũng như tiến bộ kỹ thuật, đổi mới cả về cơ cấu tổ chức và xã hội là cần thiết để đạt được sự chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Tính bền vững xã hội, khả năng tương thích về môi trường và khả năng cạnh tranh phải được phân tích trong các chuỗi giá trị toàn cầu. Kinh tế xanh là một chủ đề chính tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất Rio + 20 vào tháng 6 năm 2012, và theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường xã hội- xã hội chỉ có thể đạt được nếu 2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) - hiện khoảng 1,3 nghìn tỷ đô la Mỹ - được đầu tư cho năm 2050 trong quá trình chuyển đổi các ngành then chốt như nông nghiệp, xây dựng, cung cấp năng lượng, công nghiệp, vận tải hoặc chất thải và ngành nước.

Sau Rio+20, Bộ Giáo dục và Đào tạo Liên bang (BMBF), cùng với Bộ Môi trường, Bảo tồn thiên nhiên, Xây dựng và An toàn hạt nhân (BMUB), đã thiết lập một tiến trình nghị sự cho kinh tế xanh với mục đích hỗ trợ và định hình quá trình chuyển đổi nền kinh tế xanh thông qua nghiên cứu ứng dụng. Quá trình này bao gồm các yếu tố của nền kinh tế, khoa học, quản trị và các nhóm xã hội. Bắt đầu từ Hội nghị “Kinh tế xanh - Một phép lạ kinh tế mới” (tháng 9-2012) các vấn đề nghiên cứu trong sáu lĩnh vực hoạt động của Cộng hòa Liên bang Đức đã được khởi thảo, xây dựng trong cuộc đối thoại với các chuyên gia và các bên liên quan từ các viện nghiên cứu, hiệp hội, công đoàn, cộng đồng địa phương và các nhóm xã hội dân sự.

Giai đoạn thí điểm đầu tiên chính thức hóa và thực hiện các biện pháp cho các vấn đề lựa chọn trong các lĩnh vực hoạt động, nhằm mục đích là để tăng cường hơn nữa hình ảnh của nền kinh tế xanh và liên tục mở rộng bối cảnh hành động. Chương trình nghiên cứu kinh tế xanh đã được coi như sáng kiến hàng đầu trong Chương trình khung “Nghiên cứu phát riển bền vững - FONA”. Đồng thời, cũng áp dụng các biện pháp từ các nguồn tài chính khác của BMBF như nền kinh tế dựa trên sinh học, nghiên cứu sản xuất, vật liệu mới hoặc hệ thống điện tử. Không chỉ là quá trình xây dựng chương trình nghị sự kinh tế xanh đã được xây dựng thông qua sự hợp tácgiữa các cơ quan trọng BMBF nhưng nó là một sáng kiến liên Chính phủ cấp liên bang. Các chủ đề nghiên cứu trong mục tiêu địa chỉ tập trung vào các chiến lược phát triển bền v ra một của Chính phủ liên bang, mô tả tính bền vững như là một vũng nguyên tắc quan trị của chính sách. Ngoài ra, Chương trình Nghị sự nghiên cứu kinh tế xanh là một phân trong Chiến lược công nghệ cao mới của chính phủ liên bang, đưa cách vững chắc “quản lý kinh tế bền vững” là một trong sáu thách thức trong tương lai đối với chính sách đổi mới. Điều này có nghĩa là vận hành chương trình nghị sự nghiên cứu cũng góp phần vào tính khả thi của chính sách môi trường và kinh tế của Chính phủ liên bang.

Tầm nhìn về kinh tế xanh là một nền kinh tế cạnh tranh quốc tế vừa tương thích về mặt môi trường và xã hội. Mô liên hệ giữa sinh thái và nền kinh tế, với nền kinh tế xanh đang gia tăng phúc lợi xã hội và chống đói nghèo vì công bằng xã hội. Mục tiêu cuối cùng là phát triển các mô hình sản xuất và tiêu dùng đa dạng và bền vững nhằm đảm bảo sự thịnh vượng và chất lượng cuộc sống cao trên toàn thế giới, và đặc biệt là cho các thế hệ tương lai. Cũng như tác động tích cực về môi trường và xã hội, điều này cũng sẽ cung cố khả năng cạnh tranh và khả năng phục hồi của Cộng hòa Liên bang Đức.

Con đường dẫn đến nền kinh tế xanh đòi hỏi một quá trình thay đổi ảnh hưởng đến toàn xã hội. Nó bao gồm hiện đại hóa sinh thái toàn diện của toàn bộ nền kinh tế và các ngành khác nhau, đặc biệt là sử dụng các nguồn tài nguyên giảm lượng khí thải, cải thiện năng lượng và nguyên liệu thô, sự bên vững của sản phẩm và cơ sở hạ tầng. Các câu hỏi vềđiều kiện sống và làm việc, hành vi tiêu dùng, vòng đời sản phẩm và các mô hình tài trợ trực tiếp.

Kết nối với những vấn đề này, các chuỗi và mạng lưới tạo ra giá trị liên quan phải được xem xét một cách toàn diện, với sự tương tác phức tạp và mối quan hệ giữa các bên liên quan được xem xét. Chỉ có một cách tiếp cận có hệ thống cho phép phát triển các giải pháp thành công về kinh tế và sáng tạo để đối mặt với thách thức toàn cầu. Chẳng hạn như nguồn lực hạn hẹp, các hệ sinh thái bị đe doạ, biến đổi khí hậu và gia tăng dân số. Cũng như tiến bộ kỹ thuật, đổi mới tổ chức và xã hội là cần thiết để đạt được sự chuyển đổi sang nền kinh tế xanh.

Chương trình Nghiên cứu kinh tế xanh đã được coi như một sáng kiến hàng đầu trong Chương trình khung “Nghiên cứu phát triển bền vững - FONA”. Đồng thời, cũng áp dụng các biện pháp từ các nguồn tài chính khác của BMBF như nền kinh tế dựa trên sinh học, nghiên cứu sản xuất, vật liệu mới hoặc hệ thống điện tử.

Chính phủ Đức cam kết liên kết nền kinh tế xanh với mục tiêu thiết lập một nền kinh tế bền vững, một nền kinh tế tương thích môi trường và xã hội, cũng như cạnh tranh; đồng thời sẵn sàng giải quyết những thách thức và nắm bắt những cơ hội mà nền kinh tế xanh có thể cung cấp cho đất nước. Cộng hòa Liên bang Đức cũng đã khởi xướng tiến trình Nghị sự xanh (năm 2012) với mục tiêu hỗ trợ và định hướng nền kinh tế xanh thông qua đổi mới công nghệ, xã hội và kinh tế.

Thực vậy, kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức và nhiều nước khác đều cho thấy, kinh tế xanh không thể thành công nếu không đánh giá đúng và không coi trọng vai tròquan trọng của cộng đồng, bao gồm cộng đồng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không phụ thuộc vào mức độ nhận thức của dân chúng, quy mô to nhỏ khác nhau của các doanh nghiệp có chung tên gọi “vừa và nhỏ”. Chẳng hạn, ở Cộng hòa Liên bang Đức, cần phát huy các trào lưu hỗ trợ đắc lực cho việc thay đổi hành vi theo hướng “xanh” của kinh tế xanh như trào lưu “sống xanh”, “tiêu dùng xanh”, “mua sắm xanh” Sống xanh đã trở thành xu thế sống sành điệu không chỉ của giới trẻ Cộng hòa Liên bang Đức. Tiêu dùng xanh, mua sắm xanh, tức là việc lựa chọn một sản phẩm hoặc dịch vụ có cùng chức năng nhưng ít gây tác động xấu đến môi trường, có cùng mức giá cạnh tranh mà vẫn thể hiện được trách nhiệm xã hội đã trở thành một trong những công cụ, chính sách quan trọng thúc đẩy mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững - mục tiêu quan trọng của kinh tế xanh ở các nước có chỉ tiêu công chiếm từ 10 đến 15% GDP. Theo đánh giá sơ bộ, tỷ lệ người thực hiện tiêu dùng xanh ở Đức và một số nước phát triển đã tới 20, thậm chí 50% số người tiêu dùng.

Tài liệu tham khảo

http://vneconomy.vn/the-gioi-huong-toi-nen-kinh-te-nang-luong-xanh 20090805100756300.htm.

 


[1]vneconomy.vn/the-gioi-huong-toi-nen-kinh-te-nang-luong-xanh 20090805100756300.htm.

[2]Xem vneconomy.vn/the-gioi/duc-huong-toi-nen-kinh-te-nang luong-xanh...

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành