Kể từ khi thành lập và đi vào hoạt động kể từ năm 1946, Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) đã tiến hành thụ lý và xét xử 170 vụ tranh chấp quốc tế[1]. Tuy nhiên, chỉ có tổng số 14 vụ tại ICJ có sự đề nghị của một nước không phải bên tranh chấp đề nghị ICJ xem xét cho tham gia vụ tranh chấp với tư cách là bên thứ ba. Những nước này cho rằng vụ việc tranh chấp có liên quan lợi ích hợp pháp của họ và yêu cầu Tòa xem xét chấp thuận cho họ tham gia với tư cách là bên thứ ba. Nếu so sánh với một cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) về sự tham gia của bên thứ ba thì con số này quả thật rất khiêm tốn. Tuy nhiên, điều này có thể lý giải bởi một số nguyên nhân như sau:
Một, các bên tranh chấp thường không muốn một bên thứ ba tham gia vào vụ tranh chấp của mình. Nguyên đơn hoặc bị đơn đều muốn bảo mật thông tin về vụ kiện và chỉ có những bên trực tiếp tham gia vào vụ tranh chấp mới được tham gia vào các phiên xét xử trong giai đoạn thủ tục tố tụng của Tòa án.
Hai, Tòa án tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tranh chấp về việc đồng ý hay không đồng ý cho một bên thứ ba tham gia vụ tranh chấp của mình trước khi cân nhắc đưa ra quyết định về việc đồng ý cho nước đó tham gia. Tuy nhiên, Tòa án có thể áp dụng thẩm quyền của mình để cho phép một nước tham gia vụ tranh chấp với tư cách là bên thứ ba nếu xét thấy việc đề nghị tham gia vụ kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nước đó là có căn cứ mà không phụ thuộc vào sự đồng ý của các bên tranh chấp trong vụ kiện theo thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp tại Tòa.
Trong những vụ tranh chấp tại ICJ, không phải vụ việc nào thành viên có đơn đề nghị tham gia với tư cách là bên thứ ba liên quan đến tranh chấp cũng đều được ICJ chấp thuận và đồng ý cho phép tham gia. Những trường hợp ICJ từ chối cho phép tham dự vụ tranh chấp trên cơ sở xem xét, đánh giá đề nghị tham gia của thành viên và ý kiến của các bên tranh chấp.
New Zealand tham gia với tư cách là bên thứ ba tại ICJ trong vụ kiện “Whaling in the Antarctic (Australia v. Japan: New Zealand intervening)” - Vụ kiện đánh bắt cá voi ở Nam Cực giữa Úc và Nhật Bản[2]. Trong vụ kiện này, New Zealand đã thể hiện vai trò của mình khi tham gia với tư cách bên thứ ba cụ thể như sau:
Ngày 31/5/2010, Úc đã tiến hành thủ tục tố tụng gửi bản đệ trình đến ICJ cáo buộc Nhật Bản đang theo đuổi chương trình săn bắt cá voi quy mô lớn theo giai đoạn hai của Chương trình nghiên cứu cá voi của Nhật Bản tại Nam Cực được sự cho phép đặc biệt (gọi tắt là “JARPA II”), Nhật Bản bị cho rằng đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Công ước quốc tế năm 1946 về Quy định đánh bắt cá voi và các nghĩa vụ quốc tế về bảo tồn động vật biển và môi trường biển.
Ngày 20/11/2012, New Zealand đã nộp cho Tòa bản Tuyên bố tham gia căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 63 của Quy chế của Tòa án Công lý quốc tế về việc tham gia bên thứ ba liên quan đến vụ tranh chấp Cá voi Nam Cực (giữa Úc và Nhật Bản). Trong bản Tuyên bố này, New Zealand đã nêu cơ sở pháp lý quy định việc tham gia với tư cách là bên thứ ba trong vụ kiện này như sau:
“Nhân danh Chính phủ New Zealand, tôi rất vinh dự gửi tới Quý Tòa bản Tuyên bố tham gia căn cứ theo quy định về quyền này tại Điều 63, khoản 2 của Quy chế Tòa án, trong vụ kiện đánh bắt cá voi ở Nam Cực (giữa Úc và Nhật Bản).
Theo Điều 82, khoản 2 của Quy tắc xét xử của Tòa án quy định Tuyên bố của một nước thể hiện việc mong muốn có lợi cho quyền tham gia của nước này căn cứ theo Điều 63 của Quy chế của Tòa án sẽ được định rõ trong vụ kiện và công ước có liên quan và có nội dung như sau:
a. Chi tiết những cơ sở mà nước tuyên bố xem xét với tư cách là thành viên của Công ước;
b. Xác định những quy định cụ thể của Công ước và nội dung của Công ước được xem xét đặt câu hỏi;
- Bản trình bày về nội dung kết cấu các điều khoản dựkiến;
- Danh sách các tài liệu cung cấp, những tài liệu nào sẽ được đính kèm.
Tiếp theo trong bản Tuyên bố tham gia này, New Zealand (với tư cách là thành viên của Công ước quốc tế về đánh bắt cá voi) đã đề cập đến cơ sở pháp lý tại Điều 63 Quy chế của Tòa án về việc tham gia với tư cách là bên thứ ba trong vụ kiện giữa Úc và Nhật Bản khi cho rằng việc giải thích những nội dung trong Công ước có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của mình như sau:
“Tuyên bố này có liên quan đến vụ kiện đánh bắt cá voi ở Nam Cực (giữa Úc và Nhật Bản) được thành lập ngày 31/5/2010 bởi Chính phủ Úc kiện Chính phủ Nhật Bản. Vụ kiện này đề cập đến vấn đề giải thích Công ước quốc tế về đánh bắt cá voi.
Với tư cách là thành viên của Công ước, New Zealand có lợi ích trực tiếp đến nội dung của Công ước bởi các quyết định của Tòa trong quá trình tố tục. Vì lý do này, New Zealand đang thực hiện quyền tham gia theo quy định tại Điều 63 của Quy chế Tòa án. Do vậy, việc tham gia của New Zealand trực tiếp liên quan đến những nội dung của Công ước được đề cập đến trong vụ kiện này, đặc biệt là theo Điều VIII.”[3] [72, tr.8].
Ngày 31/3/2014, ICJ đã ra phán quyết về vụ kiện giữa Úc và Nhật Bản. Trong phán quyết này, những quan điểm và lập luận pháp lý của New Zealand đã được Tòa ghi nhận. Theo đó, New Zealand đã trình bày quan điểm của mình về việc giải thích và viện dẫn quy định Điều VIII của Công ước năm 1946 về Quy định đánh bắt cá voi và các nghĩa vụ quốc tế về bảo tồn động vật biển và môi trường biển. Cụ thể như sau:
“Tóm lại, các quy định của Điều VIII phải được giải thích một cách trung thực với ngữ cảnh và theo xu hướng với đối tượng và mục đích của Công ước, phải kể đến thực tiễn của các bên và quy tắc áp dụng của luật quốc tế, được xác nhận bởi các biện pháp giải thích bổ sung. Trên cơ sở những yếu tố cân nhắc này, Điều VIII được giải thích một cách chính xác như sau:
a. Điều VIII cấu thành một phần không thể thiếu của hệ thống quy định tập hợp được thiết lập bởi Công ước, không phải trường hợp ngoại lê. Như vậy, điều này không thể áp dụng cho phép đánh bắt cá voi trong đó ảnh hưởng của việc đánh bắt cá voi sẽ vi phạm những nghĩa vụ khác của Công ước hoặc làm suy giảm đối tượng và mục đích của Công ước.
b. Chỉ cho phép đánh bắt cá voi được thực hiện theo Điều VIII là trường hợp ngoại lệ của Công ước.
c. Điều VIII chỉ cho phép Chính phủ ký kết để cấp phép đặc biệt cho các mục đích nghiên cứu khoa học chọn lọc. Mục đích mà việc cấp phép đặc biệt được cấp là việc xác định đối tượng, có tính đến phương pháp, thiết kế và đặc điểm của chương trình, bao gồm: quy mô của chương trình; kết cấu; cách thức thực hiện và kết quả.
- Điều VIII yêu cầu Chính phủ được cấp phép đặc biệt để hạn chế số lượng cá voi bị giết với mức cho phép thấp nhất cần thiết và tướng ứng với mục tiêucủachươngtrình,vàđiềunàycóthểđượcchứngminhsẽkhônglàmảnhhưởng tới việc bảo tồn lượng dự trữ.
- Chính phủ được cấp phép đặc biệt phải thực hiện nghĩa vụ hợp tác thực chất có ý nghĩa, và phải chứng minh rằng mình đã xem xét đúng đắn các quan điểm của Ủy ban khoahọc.
- Chỉ đánh bắt cá voi theo giấy phép đặc biệt đáp ứng cả ba yêu cầu của Điều VIII trên đây mới được phép áp dụng Điều VIII.”[4].
Trong vụ kiện nêu trên, ta có thể nhận thấy vai trò quan trọng của New Zealand khi tham gia với tư cách bên thứ ba. Bằng hình thức tham gia với tư cách bên thứ ba, New Zealand đã tích cực tham gia và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình suốt quá trình tố tụng giải quyết tranh chấp của Tòa. Những quan điểm, ý kiến pháp lý của bên thứ ba được ghi nhận trong các quyết định, phán quyết của Tòa. Tòa xem xét toàn bộ những nội dung được đệ trình của bên thứ ba trong toàn bộ quá trình xét xử và đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện.
[1] Số liệu tổng hợp từ trang web của ICJ địa chỉ www.icj-cij.org truy cập lần cuối ngày 01/9/2020
[2] International Court of Justice (2014), Whaling in the Antarctic (Australia v. Japan: New Zealand intervening), Judgment of 31 March 2014, La Haye
[3] International Court of Justice (2012), Whaling in the Antarctic (Australia v. Japan: New Zealand intervening), Declaration of Intervention of the Government of New Zealand of 20 November 2012, La Haye
[4] International Court of Justice (2012), Whaling in the Antarctic (Australia v. Japan: New Zealand intervening), Declaration of Intervention of the Government of New Zealand of 20 November 2012, La Haye