Thứ sáu, 14 Tháng 4 2023 22:30

Giới thiệu một số nhóm tội phạm về môi trường trong pháp luật quốc tế

Theo quan điểm của Liên hiệp Quốc, mức độ nghiêm trọng của các tội phạm môi trường tác động đến đa dạng sinh học và suy thoái môi trường đang có tầm ảnh hưởng quốc tế. Yêu cầu đặt ra là cần có sự hợp tác giữa các quốc gia và một khung pháp lý mang tính chất quốc tế để xử lý tội phạm môi trường, một loại tội ác mới chống lại loài người cả hiện tại và tương lai, đòi hỏi chuẩn hóa một khuôn khổ pháp lý quốc tế. Chính vì vậy, một loạt các Công ước quốc tế về môi trường đã được xây dựng và ký kết trong đó đặt ra các tiêu chuẩn, yêu cầu, khuyến nghị các quốc gia thành viên nội luật hóa làm cơ sở xử lý tội phạm môi trường.

Năm 1998, Công ước Aarhus đã tuyên bố các quốc gia cần ký kết tạo ra các quy tắc tố tụng và pháp điển hóa pháp luật quốc gia nhằm đạt được mục tiêu đảm bảo con người có một cuộc sống khỏe mạnh, hữu ích, hòa hợp với thiên nhiên. Công chúng có quyền thông tin, quyền tham gia và quyền tiếp cận công lý cho vấn đề Bảo vệ môi trường[1]. Sau thất bại của Nghị định thư Kyoto, năm 1995, Liên Hợp quốc đã ban hành Nghị quyết 1994/15 trong đó chính thức kêu gọi các quốc gia thừa nhận mức độ nghiêm trọng nhất của hành vi tổn hại đến môi trường là tội phạm và đề xuất khả năng xây dựng một tòa án hình sự quốc tế chuyên về tội phạm môi trường. Nghị quyết cũng kêu gọi các quốc gia xây dựng cấu thành một số tội phạm môi trường cơ bản, nhấn mạnh rằng, hợp tác quốc tế phải được coi là ưu tiên hàng đầu để giảm thiểu tác hại lâu dài của môi trường[2], đồng thời các quốc gia ký kết được yêu cầu hình sự hóa một số hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, được cụ thể theo các nhóm như sau:

Nhóm hành vi xâm hại đến các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên và nhân tạo

Hiện tượng biến đổi khí hậu ngày càng trở nên nghiêm trọng và ảnh hưởng lớn đến các quốc gia trên thế giới. Ngay trong Lời mở đầu của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 1992 đã khẳng định “Sự biến đổi của khí hậu trái đất và những hiệu ứng nguy hại của nó là mối quan tâm chung của nhân loại”, nhằm làm chậm lại những tiêu cực từ biến đổi khí hậu, trong đó yêu cầu các quốc gia phải hướng đến hạn chế các tác nhân gây ra chúng bằng việc xây dựng những chính sách và biện pháp khác nhau, nhưng “phải toàn diện, bao trùm mọi nguồn”[3]. Cụ thể hơn, để triển khai hoạt động chống biến đổi khí hậu, Công ước Viên về bảo vệ tầng ozone đã được thông qua vào tháng 3-1985 tại Viên đã chỉ rõ trách nhiệm của các quốc gia phải “Chấp nhận các biện pháp pháp lý hoặc hành chính và hợp tác trong việc phối hợp các chính sách thích hợp để kiểm soát hạn chế, giảm bớt hoặc ngăn chặn những hoạt động của con người trong phạm vi quyền hạn hoặc sự kiểm soát của mình nếu như thấy rằng các hoạt động đó có hoặc dễ có những ảnh hưởng có hại do sự biến đổi hoặc dễ biến đổi tầng ôzôn” (Điều 2), đồng thời Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozon năm 1992 đã xác định các chất gây suy giảm tầng ozon để các quốc gia ghi nhận trong pháp luật các nước có biện pháp chống lại các hoạt động gây hại. Các quy định khung nêu trên buộc các quốc gia thành viên có trách nhiệm trong việc bảovệ không khí, bảo vệ sức khỏe, môi trường ở từng quốc gia thông qua các biện pháp khác nhau trong đó có Luật hình sự.

Ngoài ra, trong số các hành vi gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng sức khỏe con người nghiêm trọng được các quốc gia đặc biệt quan tâm nhất là các quốc gia đang phát triển đó là hành vi vận chuyển, đưa chất thải từ quốc gia khác vào lãnh thổ. Đây là một dạng hành vi cần được sự kiểm soát chặt chẽ để các quốc gia đang phát triển không trở thành “bãi rác thải” của các quốc gia khác. Do đó, một loạt các công ước quốc tế chống rác thải đã ra đời, trong đó đã chỉ ra “cách tốt nhất để bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường khỏi nguy hiểm của các phế thải là giảm việc sản sinh ra chúng tới mức tối đa, cả về mặt số lượng cũng như mức độ độc hại nguy hiểm”[4], từ đó yêu cầu các quốc gia thành viên cần xác định “việc vận chuyển bất hợp pháp các phế thải nguy hiểm hoặc các phế thải khác là hành vi phạm tội hình sự”[5]. Đây là quy định rất rõ ràng về việc đưa hành vi vận chuyển bất hợp pháp chất thải nguy hiểm vào pháp luật hình sự của mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hiểm và việc tiêu hủy chúng cũng chỉ ra trách nhiệm của các quốc gia xuất khẩu, quốc gia nhập khẩu và quốc gia quá cảnh cần phải tuân thủ các tiêu chuẩn, yêu cầu do Công ước đặt ra và “cấm việc nhập các chất thải nguy hiểm hoặc các chất thải khác cho việc tiêu huỷ”[6]để đảm bảo hệ sinh thái trong quốc gia nhập khẩu hoặc quá cảnh đồng thời để có biện pháp bảo vệ trong trường hợp khi các bên vi phạm. Công ước cũng yêu cầu các quốc gia “phải có biện pháp pháp lý, hành chính và các biện pháp khác cần thiết để thực thi và tôn trọng các điều khoản của Công ước này, kể cả những biện pháp phòng ngừa và trừng trị thích đáng”[7].

Tuy nhiên, Công ước Basel cũng phải đối mặt với những vấn đề mà các công ước khác trong lĩnh vực môi trường cũng gặp phải, đó là cơ chế kiểm soát danh mục chất thải nguy hại ở mỗi quốc gia là khác nhau. Việc Công ước không có danh sách các chất thải được coi là nguy hại, cũng như thiếu hướng dẫn về cách xử lý chất thải được giám sát làm nó giảm tính khả thi.

Cũng trong lĩnh vực này, trên cơ sở Công ước Basel ở mỗi khu vực với đặc thù khác nhau có những quy định chung cho cộng đồng quốc gia. Tại Châu Phi, Công ước Bamako về cấm nhập khẩu, kiểm soát và quản lý chất thải nguy hại đã bổ sung các nội dung của Công ước Basel cho phù hợp với các nước đang phát triển ở châu Phi. Trong đó xác định cấm xuất khẩu sang châu Phi chất thải nguy hại, kể cả chất thải phóng xạ, ngay cả với mục đích tái chế. Công ước khẳng định mỗi quốc gia sẽ xây dựng các quy định nội luật để áp đặt các hình phạt hình sự đối với những người lên kế hoạch, thực hiện, hỗ trợ việc nhập khẩu bất hợp pháp chất thải nguy hại vào Châu Phi. Công ước cũng cấm vận chuyển chất thải nguy hại trong vùng biển quốc tế.

Ở châu Âu, cộng đồng EU đã ban hành Công ước EU về bảo vệ môi trường thông qua Luật hình sự (Hiệp ước No.172 năm 1998) trong đó yêu cầu các quốc gia thành viên xây dựng các quy định bảo vệ động vật và đại dương bằng biện pháp hình sự, nhấn mạnh vào các hình phạt. Công ước bắt buộc các quốc gia ký kết phải đưa ra các điều khoản cụ thể vào Luật hình sự của họ hoặc sửa đổi các điều khoản hiện có trong lĩnh vực môi trường. Điều 2 của Công ước nêu rõ:

Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện pháp thích hợp cần thiết để hình sự hóa pháp luật quốc gia với những nhómhành vi như:

- Phát tán, phát xạ hay đưa một lượng chất hoặc bức xạ ion hóa vào không khí, đất hoặc nước; gây ra cái chết hoặc thương tích nghiêm trọng cho bất kỳ ai, hoặc tạo ra nguy cơ đáng kể gây tử vong hoặc thương tích nghiêm trọng cho bất kỳ ai;

- Xả thải, phát thải hoặc đưa bất hợp pháp một lượng chất bức xạ vào không khí, đất hoặc nước gây ra hoặc có khả năng gây ra sự suy giảm lâu dài hoặc tử vong hoặc thương tích nghiêm trọng cho bất kỳ người nào hoặc thiệt hại đáng kể cho công trình, tài sản, động thực vật được bảo vệ khác;

- Xử lý trái phép, vận chuyển, lưu trữ, xuất khẩu, nhập khẩu chất thải nguy hại là nguyên nhân hoặc có khả năng gây tử vong hoặc thương tích nghiêm trọng cho bất kỳ ai hay thiệt hại cho chất lượng không khí, đất, nước, động thực vật;

- Hoạt động bất hợp pháp của một nhà máy trong đó một hành vi nguy hiểm được thực hiện và là nguyên nhân hoặc có khả năng gây tử vong hoặc thương tích nghiêm trọng cho bất kỳ ai hay thiệt hại cho chất lượng không khí, đất, nước, động thực vật;

- Sản xuất, xử lý, lưu trữ, sử dụng, vận chuyển, xuất khẩu hoặc nhập khẩu trái phép vật liệu hoặc các chất phóng xạ nguy hiểm khác gây ra hoặc có khả năng gây tử vong hoặc thương tích nghiêm trọng cho bất kỳ ai hay thiệt hại cho chất lượng không khí, đất, nước, động thực vật.

Ngoài ra, Công ước cũng định nghĩa khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân tại Điều 9 và trách nhiệm pháp lý của pháp nhân không loại trừ việc truy cứu TNHS chống lại một thể nhân. Công ước cũng quy định các biện pháp được các quốc gia áp dụng để cho phép họ tịch thu tài sản và xác định các quyền hạn có sẵn cho chính quyền và cung cấp cho hợp tác quốc tế (Điều 7, Điều 12). Các biện pháp trừng phạt có sẵn phải bao gồm phạt tù và trừng phạt bằng tiền có thể bao gồm phục hồi môi trường, sau đó là một điều khoản tùy chọn trong Công ước (Điều 8). Một điều khoản lớn khác liên quan đến khả năng các hiệp hội BVMT tham gia tố tụng hình sự liên quan đến các hành vi phạm tội được quy định trong Công ước (Điều 11).

Nhóm hành vi vi phạm điều cấm của pháp luật quốc tế về Bảo vệ môi trường

Đầu thế kỷ XX, các Công ước quốc tế về buôn bán các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng lần đầu được ký kết. Công ước CITES năm 1973 về buôn bán quốc tế các loài động vật và thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng nêu lên khoảng 900 loài động và thực vật nằm trong lệnh cấm buôn bán, khoảng29.000 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng. Năm 1980, Công ước bổ sung thêm loài voiChâu Phi vào danh sách cấm buôn bán thương mại nhưng cuối cùng, vẫn không thể bảo vệ được sự săn bắt trái phép loài này trong thực tế. CITES được thông qua năm 1973 và có hiệu lực chính thức năm 1975 khi mối đe dọa chính đối với động vật hoang dã là sự xâm lấn các khu định cư của con người vào môi trường sống của các đối tượng dễ bị tổn thương này. Tuy không có quy định trực tiếp về tội phạm môi trường, nhưng CITES đã nhận thức được khó khăn khi đối mặt với mạng lưới tội phạm buôn bán động, thực vật hoang dã xuyên quốc gia. CITES kêu gọi các quốc gia tham gia có nghĩa vụ: thành lập cơ quan quản lý liên quan đến buôn bán động thực vật hoang dã; xây dựng các quy phạm cấm buôn bán động, thực vật trong danh mục của CITES; xây dựng các quy định về hình phạt dành cho hành vi vi phạm, trong đó khuyến nghị việc hình sự hóa hành vi vi phạm; xây dựng phương thức tịch thu mẫu vật buôn bán bất hợp pháp.

Kết quả phân tích một số nội dung của các Công ước quốc tế trong phòng chống, hình sự hóa và xử lý tội phạm môi trường cho thấy các quốc gia, các khu vực trên thế giới có xu hướng xích lại gần nhau, hợp tác trong hoạt động chống lại tội phạm môi trường. Thông qua điều phối khu vực, các nước sử dụng những nguồn lực và người hỗ trợ trung lập để sẵn sàng hợp tác. Bằng việc ký kết các Công ước quốc tế đa phương, song phương nhằm đưa ra được các quyết định mang tính thống nhất quốc tế và đảm bảo giải quyết được các mối đe dọa về môi trường. Ngoài ra, một xu hướng quan trọng là việc chống tội phạm môi trường không còn là vấn đề riêng của mỗi quốc gia mà đã thành vấn đề chung của khu vực, của toàn thế giới. Việc xác định tội phạm môi trường đã được đặt trọng tâm vào bản chất toàn cầu của tội phạm này, qua đó, khái niệm tội phạm môi trường xuyên quốc gia được xây dựng. Tội phạm môi trường xuyên quốc gia được hiểu là những hành vi trái pháp luật và bị xử lý hình sự, bao gồm các tội phạm liên quan đến ô nhiễm không khí, nước, đất và tội ác chống lại động vật hoang dã; là tội phạm liên quan đến một   hình thức vận chuyển xuyên biên giới và quốc tế mang tính toàn cầu[8].

Tuy nhiên, kết quả phân tích nội dung của các Công ước quốc tế liên quan đến bảo vệ môi trường cũng cho thấy những hạn chế nhất định trong quy định của Công ước liên quan đến tội phạm môi trường thể hiện ở chỗ cho đến nay vẫn chưa có Công ước quốc tế cụ thể nào đề xuất trực tiếp đến tội phạm môi trường một cách tổng quan, hầu hết chỉ ở khuyến nghị hay đề cập đến hành vi xâm hại môi trường trong một số lĩnh vực nhất định. Vì mục tiêu bảo vệ môi trường và chống tội phạm môi trường quốc tế, chắc chắn pháp luật quốc tế cần phải hoàn thiện hơn nữa trong thời gian tới.

 


[1]Nguyễn Hải Anh (2009), “Cần sớm sửa đổi, bổ sung các TPMT trong BLHS năm 1999”, Tạp chí Kiểm sát 04(02), tr. 25 -28

[2]Brian Robinson (2017), The Nature of Environmental Crime, Intergovernmental Agreement on the Environment, Canberra,Autralian

[3]Liên hợp quốc (1992), Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu, Nxb Laođộng.

[4]Liên hợp quốc (1992), Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu, Nxb Laođộng.

[5]Liên hợp quốc (1992), Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu, Nxb Laođộng

[6]Liên hợp quốc (1992), Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu, Nxb Laođộng

[7]Liên hợp quốc (1992), Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu, Nxb Laođộng

[8]Hamdan Quad (2014), Toward international Criminalization of Tranboundry Environmental Crimes tại Pace University School of Law,USA, pg.96

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành