1. Khái niệm về tài sản
Theo Từ điển tiếng Việt, tài sản được hiểu là: “Của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”[1]. “Tài sản có thể được hiểu là bất cứ thứ gì có giá trị, một khái niệm rộng và không giới hạn, luôn được bồi đắp thêm bởi những giá trị mới mà con người nhận thức ra”. Trong cuốn Deluxe Black’s Law Dictionary tài sản được giải nghĩa là một từ được sử dụng chung để chỉ mọi thứ là đối tượng của quyền sở hữu, hữu hình hoặc vô hình, động sản hoặc bất động sản. Như vậy, nếu xét dưới góc độ luật học thì khái niệm tài sản được nhìn nhận trong mối quan hệ với quyền sở hữu và được xem xét dưới các khía cạnh đa dạng như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, động sản và bất động sản.
Nghiên cứu về khái niệm tài sản không thể không tìm hiểu về khái niệm này từ các học giả thời La Mã cổ đại. Theo luật La Mã, tài sản bao gồm các vật và quyền tài sản. Vật là những đối tượng hữu hình đơn lẻ, phân biệt được, có tính độc lập mà con người có thể cầm nắm, khai thác lợi ích kinh tế và có giá trị vật chất. Theo tiếng Latinh, vật không chỉ là những vật hữu hình mà còn bao gồm cả những đối tượng vô hình như quyền tài sản[2]. Tư tưởng này đã đặt nền móng cho các học thuyết về tài sản phát triển và quá trình pháp điển hóa khái niệm tài sản trong pháp luật của các nước theo hệ thống pháp luật Common Law và Civil Law sau này.
Các nước theo hệ thống luật Civil Law như Pháp, Nhật Bản, Canada không định nghĩa bao quát về tài sản trong Bộ luật Dân sự, mà chỉ quy định về tài sản thông qua việc phân loại chúng. Phân loại tài sản cũng là một kỹ thuật pháp lý để làm rõ các khía cạnh của tài sản và để xây dựng các quy chế pháp lý điều chỉnh phù hợp. Theo Bộ luật Dân sự Pháp, tài sản bao gồm động sản và bất động sản (Điều 516); Tài sản có thể là động sản do tính chất hoặc do pháp luật quy định (Điều 527). Như vậy, tài sản được nhận diện thông qua các khái niệm như vật (mang tính hữu hình) và quyền (mang tính vô hình) hoặc động sản và bất động sản. Các học giả Common Law lại thể hiện quan niệm tài sản là các mối quan hệ giữa người với người liên quan đến vật, hơn là nhấn mạnh đến các đặc tính vật lý hay chất liệu như các học giả Civil Law, theo đó tài sản được hiểu là một tập hợp quyền (a bundle of rights): tài sản bao gồm bất kể những gì có khả năng sở hữu hoặc bởi cá nhân, tập thể hoặc cho lợi ích của người khác[3].
Các quan niệm về tài sản trong Bộ luật Dân sự của một số nước tiêu biểu cho hệ thống pháp luật trên thế giới đều đi theo 2 cách tiếp cận cơ bản, đó là tài sản được tiếp cận dưới góc độ vật hay dưới góc độ quyền. Dưới góc độ vật, theo tiêu chí vật lý thì những vật mà con người có thể nhận biết được bằng các giác quan tiếp xúc được xác định là vật hữu hình, còn ngược lại thì là tài sản vô hình. Tài sản vô hình chính là các quyền tài sản.
Như vậy, tài sản gồm có vật và quyền, có tính hữu hình và vô hình. Dưới góc độ quyền: Cơ sở của cách tiếp cận này là sự thừa nhận vật có tính chất hữu hình, độc lập, có thể “cầm nắm” được. Việc tiếp theo của các nhà làm luật là xác định các quyền lợi của các chủ thể xoay quanh vật hữu hình đó. Các quyền được thực hiện một cách trực tiếp trên vật hữu hình mà không cần có sự hỗ trợ của bất kỳ chủ thể nào khác được gọi là quyền đối vật hay còn gọi là vật quyền. Trong quyền đối vật có quyền đối vật tuyệt đối là quyền sở hữu và quyền đối vật phụ thuộc là các quyền hưởng dụng, quyền địa dịch, quyền bề mặt, quyền của bên nhận cầm cố, thế chấp đối với vật. Ngược lại với quyền đối vật là quyền đối nhân, quyền đối nhân là quyền được thực hiện trên vật một cách gián tiếp thông qua hành vi của chủ thể mang nghĩa vụ hay còn được gọi là trái quyền. Bên cạnh đó, còn tồn tại một loại quyền đặc biệt không được thực hiện trực tiếp trên vật cũng không phải thông qua hành vi của người khác mà tồn tại theo quy định của pháp luật được gọi là quyền vô hình tuyệt đối, đó là quyền sở hữu trí tuệ. Pháp luật Dân sự Nhật Bản đã đi theo hướng tiếp cận này. Trong Bộ luật Dân sự Nhật Bản không có khái niệm cụ thể về tài sản mà khái niệm tài sản được ẩn chứa trong các quy định về vật (chương 3, quyển 1), vật quyền (quyển 2) và trái vụ (quyển 3). Vật và quyền là hai mặt không thể tách rời của tài sản. Nếu vật được dùng để chỉ tài sản ở phương diện vật chất thì quyền được dùng để chỉ tài sản dưới phương diện pháp lý. Theo Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện: “Ở góc độ pháp luật tài sản, quyền và vật được đặt đối lập với nhau, không thể phân ra hai loại tài sản khác nhau mà đưa ra hai cách hình dung khác nhau về tài sản, hai cách tiếp cận khác nhau đối với tài sản”[4].
Một điểm đặc thù trong khái niệm tài sản đó là: tài sản là một khái niệm động mang nội dung kinh tế, xã hội và nội dung pháp lý nhằm mục đích đáp ứng cho các nhu cầu của con người trong cuộc sống. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay với sự phát triển như vũ bão của các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, sự đa dạng hóa các loại hình hợp đồng,… đã làm phát sinh những loại tài sản mới đa dạng, phức tạp và tất nhiên kéo theo tư duy mới về những tài sản có thể được dùng để thế chấp. Những khái niệm có tính truyền thống, cố điển về tài sản đã trở nên quá chật hẹp với sự phát triển đa dạng và phức tạp của các loại hình tài sản mới, như tài sản trong các trò chơi game online, tên miền, các dự án, tài sản hình thành trong tương lai, các quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng như quyền thu phí đường bộ, quyền thuê bất động sản mà đã trả tiền thuê cho cả thời hạn thuê,… Ví dụ: Công ty A đã thế chấp toàn bộ quyền thu phí sử dụng dịch vụ mạng di động của mình cho Ngân hàng B. Theo đó, các bên thỏa thuận nếu đến hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà Công ty A không thực hiện đúng, đầy đủ thì quyền đòi phí dịch vụ từ các khách hàng của Công ty (quyền yêu cầu thanh toán) thuộc về Ngân hàng B. Hoặc để đáp ứng nhu cầu bức thiết về vốn để đầu tư mua các căn hộ chung cư đang xây, bên mua có thể dùng quyền tài sản trong hợp đồng mua nhà chung cư đó để thế chấp vay vốn ngân hàng. Nếu vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng sẽ thế vào vị trí của bên mua trong hợp đồng mua nhà chung cư đó để được xác lập quyền sở hữu đối với bên mua. Sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả,… cũng là những nguồn tài sản tiềm năng mà các chủ thể có thể lựa chọn làm tài sản thế chấp.
Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm về tài sản được quy định tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Cách định nghĩa theo kiểu liệt kê, điểm danh các loại tài sản của Bộ luật Dân sự 2015 cần phải có văn bản hướng dẫn để tránh tình trạng bỏ sót những dạng tài sản khác và không làm rõ được các đặc tính pháp lý cơ bản để nhận diện về tài sản. Như vậy, sẽ không tìm thấy các yếu tố đặc trưng cơ bản của tài sản trong khái niệm trên. Có thể nói, dưới góc độ học thuật cũng như dưới góc độ luật thực định đều không có khái niệm chính thống về tài sản trong khi khái niệm về tài sản là căn cứ, cơ sở để hình thành khái niệm tài sản thế chấp.
Trong phạm vi nghiên cứu, người viết cho rằng khái niệm tài sản cần được xây dựng theo tiêu chí chung để nhận diện tài sản đồng thời phải làm cơ sở hình thành được khái niệm tài sản thế chấp đó là: Tài sản là vật hoặc quyền mà con người có thể kiểm soát được và định giá bằng tiền. Việc kiểm soát được hiểu là có thể nắm giữ, chiếm giữ thông qua các giác quan (đối với vật hữu hình) hoặc có cách thức quản lý (đối với vật vô hình) ví dụ như đăng ký xác lập quyền đối với tài sản.
2. Đặc điểm của tài sản
Để nhận diện về tài sản thì nhất thiết phải chỉ ra được các đặc điểm pháp lý của chúng. Trên cơ sở tìm hiểu các quy định của pháp luật dân sự truyền thống và hiện đại, tài sản có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, tài sản là những đối tượng mà con người có thể sở hữu được. Cụ thể, con người có thể quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản, được bảo vệ trong trường hợp có chủ thể khác xâm phạm đển quyền đối với tài sản của chủ sở hữu quyền, nếu tài sản là vật hữu hình thì con người có thể nắm giữ hoặc chiếm giữ được thông qua các giác quan tiếp xúc; nếu tài sản là vật vô hình thì con người phải có cách thức để quản lý, ví dụ: Tài sản trí tuệ phải được thể hiện trên những hình thức thể hiện nhất định (giấy tờ pháp lý chứng minh quyền đối với tài sản) để con người có thể nhận biết được và chủ sở hữu có thể đăng ký xác lập quyền của mình tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ hai, tài sản phải trị giá được bằng tiền: “Theo quan điểm của Luật học Latinh, tài sản, được hiểu là một vật có giá trị tiền tệ”. Trên thực tế, phải có các căn cứ để định giá tài sản trị giá bao nhiêu tiền. Ở đây cần có sự phân biệt giữa yếu tố giá trị và trị giá được thành tiền của tài sản. Tài sản có giá trị được hiểu là tài sản đó có ý nghĩa về mặt tinh thần hay có giá trị sử dụng cụ thể nào đó với mỗi chủ thể khác nhau. Ví dụ, một món đồ chơi đã cũ từ thời thơ ấu vô cùng giá trị đối với một người nhưng để định giá được bức ảnh đó có giá trị bao nhiêu tiền thì phải có căn cứ, như thông qua bán đấu giá hay căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên để xác định nó trị giá bao nhiêu tiền hoặc có thể chẳng ai trả giá cho bức ảnh đó. Như vậy, không phải mọi tài sản có giá trị đều có thể trị giá được thành tiền.
Thứ ba, tài sản có thể là đối tượng của giao dịch dân sự. Về nguyên tắc, tài sản có thể chuyển giao trong các giao dịch dân sự khi đáp ứng các điều kiện sau:
(i) Chúng là quyền tài sản không gắn liền với nhân thân vì các giá trị nhân thân chỉ thuộc về một người, không thể chuyển giao cho người khác và (ii) tài sản được nhà nước thừa nhận (Ví dụ: Ma túy là tài sản nhưng không được phép lưu thông do không được Nhà nước công nhận).
Thứ tư, tài sản là một khái niệm động mang nội dung kinh tế, xã hội và nội dung pháp lý nhằm mục đích đáp ứng cho các nhu cầu của con người trong cuộc sống. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của các tiến bộ khoa học kỹ thuật, sự đa dạng hóa các loại hợp đồng… đã làm phát sinh những loại tài sản mới đa dạng, phức tạp và tất yếu kéo theo tư duy mới về tài sản. Những khái niệm có tính truyền thống, cổ điển về tài sản đã trở nên quá chật hẹp so với sự phát triển đa dạng và phức tạp của các loại hình tài sản mới như tiền ảo, tài sản trong trò chơi điện tử, tên miền,…[5]
[1] Viện Ngôn ngữ (2010), “Từ điển Tiếng Việt”, NXB Từ điển Bách khoa, tr.884.
[2] Witold Wolodkiewicz và GS.TS Maria Zablocka (Lê Nết, dịch): Giáo trình Luật La Mã của Đại học Tổng hợp Warsawa – Ba Lan.
[3] Banking Act 2009 (Luật Ngân hàng Anh năm 2009).
[4] Nguyễn Ngọc Điện (2005), “Cần xây dựng lại khái niệm quyền tài sản trong luật dân sự”, Tạp chí nghiên cứu pháp luật, tr.50.
[5] Vũ Thị Hồng Yến, “Khái niệm tài sản trong pháp luật dân sự và kiến nghị sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp ngày 01/11/2015.