Liên quan đến việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Lý thuyết dựa trên cách tiếp cận theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội để luận giải về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất một cách trực tiếp là lý thuyết thuộc hệ thống tư tưởng của C. Mác - VI. Lênin. Tuy nhiên, với nhiều lý thuyết khác, mặc dù không trực tiếp tiếp cận theo kiểu mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, thực tế các khía cạnh và để xuất nêu ra cũng hướng tới việc giải quyết mối quan hệ cơ bản của bất kỳ nền kinh tế thị trường nào.
1. Lý thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin
Trong hệ thống di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, ngoài việc luận chứng tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, các nhà kinh điển cũng nêu ra những phương thức giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất gắn với điều kiện kinh tế thị trường; trong đó các nhà kinh điển nhấn mạnh việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất tập trung vào hai nội dung: phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu.
Về khía cạnh thứ nhất, theo quan điểm của C. Mác, lực lượng sản xuất là thành tố có vai trò quyết định đối với sự phát triển của một phương thức sản xuất. Do đó, để hoàn thiện quan hệ sản xuất, trước hết đòi hỏi phát triển lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất luôn tự vạch đường đi cho nó để kéo theo đòi hỏi hoàn thiện quan hệ sản xuất tương ứng. Trong trường hợp lực lượng sản xuất phát triển đến độ nhất định, quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nữa thì lực lượng sản xuất sẽ phá vỡ cấu trúc quan hệ sản xuất cũ để thúc đẩy sự xuất hiện phương thức sản xuất mới. Những nội hàm này, về cơ bản được quán chiếu và trình bày có hệ thống trong hầu hết các tác phẩm kinh điển của C. Mác và Ph. Ăngghen. C. Mác nhấn mạnh: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”[1], “Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi những quan hệ của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”[2] và với tư duy vượt thời gian của mình, C. Mác từng dự báo đến một trình độ phát triển nào đó “tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp”[3].
Về khía cạnh thứ hai, theo V.I. Lênin, khía cạnh giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất được V.I. Lênin thể hiện tập trung trong chính sách kinh tế mới - NEP. Theo V.I. Lênin, việc hoàn thiện quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn với một nước đại đa số là trình độ tiểu nông xét về trình độ lực lượng sản xuất thì phải thực hiện quan hệ sản xuất theo nguyên tắc xác lập nền kinh tế nhiều thành phần sở hữu khác nhau. Tư duy này được V.I. Lênin rút ra sau khi tổng kết thực hiện chính sách cộng sản hời chiến và nhận thức được sai lầm về mặt tư duy của mình. V.I. Lênin nhấn mạnh: “Chúng ta chưa tính toán đầy đủ mà đã tưởng là - có thể trực tiếp dùng pháp lệnh của nhà nước vô sản, để tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa, trong một nước tiểu nông, việc nhà nước sản xuất và phân phối sản phẩm. Đời sống thực tế đã vạch rõ sai lầm của chúng ta”[4]. Với tinh thần tư duy đó, VI. Lênin chủ trương thực hiện xây dựng quan hệ sản xuất mới thông qua nhiều hình thức sở hữu và duy trì nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nghĩa là, thực hiện quan hệ sản xuất quá độ lên chủ nghĩa xã hội bằng nền tảng kinh tế thị trường. Ở đây, theo V.I. Lênin, phương thức để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất của một quốc gia theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải dựa trên nguyên tắc kinh tế đa sở hữu và do đó thừa nhận quan hệ hàng hóa, tiền tệ, tức là thừa nhận sự phát triển của quan hệ thị trường.
2. Lý thuyết về sự phá hủy sáng tạo của Schumpeter[5]
Mặc dù không đề cập tới bản thân mối quan hệ, song những kiến giải của Schumpeter về việc phá hủy sáng tạo thực chất là việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất nếu nhìn qua lăng kính của cách nhìn Mácxít.
Schumpeter cho rằng, sự thay đổi các chu kỳ tăng trưởng luôn tạo ra một áp lực cho sự phá hủy, mặc dù sự phá hủy này tác động tới lợi ích của các chủ thể đang gắn bó với tiềm lực cũ, song nếu không chấp nhận phá hủy nó, sẽ khó có được những năng lực mới. Đó là sự phá hủy một cách sáng tạo.
Để thực hiện được những động lực mới, đòi hỏi những nguyên tắc mang tính thúc đẩy sáng tạo mới phải được điều chỉnh để phù hợp với tình hình mới. Trong lý thuyết của mình, Schumpeter đã luận chứng cho việc hoàn thiện các nguyên tắc như là một phương thức để tiếp tục thúc đẩy sức sáng tạo mới. Xét về khía cạnh này, những nguyên tắc đó ngày nay thường được hiểu là các chính sách hay thể chế, hình thái biểu hiện của mối quan hệ, mặc dù Schumpeter không để cập trực tiếp như cách tiếp cận Mácxít,
3. Lý thuyết thể chế
Các lý thuyết thuộc kinh tế học thể chế lại nhấn mạnh việc giảm chi phí giao dịch như là một căn nguyên của việc hình thành các thể chế. Mặc dù trong hầu hết các trường hợp, các nhà kinh tế học thể chế không nhìn theo lăng kính mácxít về vấn đề vai trò của thể chế như là hình thái biểu hiện của mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, song từ trong tinh thần của các lý thuyết thể chế có thể thấy, việc hoàn thiện thể chế, giảm chi phí giao dịch được xem là động lực của việc thúc đẩy tăng trưởng, thể chế cũng là nguồn lực của tăng trưởng. Thể chế, trước hết là thể chế kinh tế là nền tảng cho việc giải phóng các nguồn lực và phân bổ các nguồn lực một cách minh bạch. Về khía cạnh này, có thể nhận thấy thể chế cũng là một phương thức để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất (tăng trưởng) và hoàn thiện quan hệ sản xuất bằng thể chế.
4. Lý thuyết chỉ số tiến bộ xã hội
Trong những năm gần đây, nhiều nhà kinh tế ở các nước phát triển đã tìm kiếm phương thức đánh giá sự phát triển của một quốc gia bằng các tiêu chí mới, toàn diện hơn chỉ tiêu GDP, đó là hệ thống chỉ tiêu đánh giá phát triển tiến bộ xã hội SPI.
Tăng trưởng kinh tế đo lường thông qua mức tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã được sử dụng như một chỉ tiêu cơ bản dẫn dắt hoạt động đánh giá về một nền kinh tế của các quốc gia hơn sấu thập kỷ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai tới nay. Tuy vậy, trình độ phát triển của một quốc gia không chỉ ở chỉ số tăng trưởng. Vấn đề cơ bản là sự tăng trưởng kinh tế đó có đem lại một sự thịnh vượng chung cho toàn bộ xã hội hay không. Xét về khía cạnh này, chỉ tiêu tăng trưởng không phản ánh được giá trị toàn diện của sự phát triển xã hội. GDP và GDP bình quân đầu người về cơ bản phản ánh sự gia tăng về quy mô của một nền kinh tế và quy mô thu nhập bình quân đầu người theo thời gian. Trong thực tế, nhiều quốc gia cho thấy, chỉ tiêu GDP bình quân đầu người có thể cao, song mức độ bất bình đẳng xã hội không vì thế mà thấp. Trái lại, có quốc gia với chỉ số GDP đầu người thấp, song chỉ số về bình đẳng xã hội có khi lại tốt hơn các quốc gia có quy mô GDP và GDP bình quân đầu người cao. Chẳng hạn, mặc dù Mỹ là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới nhưng Mỹ không phải là quốc gia có chỉ số bình đẳng xã hội tốt nhất thế giới. Vị trí này lại thường thuộc về các nước có quy mô GDP thấp hơn Mỹ nhiều - các nước Bắc Âu. Lẽ dĩ nhiên, không có tăng trưởng, tất sẽ không có cơ hội để cải thiện sự thịnh vượng chung của xã hội. Song chỉ có GDP gia tăng chưa hẳn có sự cải thiện về sự phồn vinh chung của xã hội. Rất khó có thể kết luận sự văn minh và tiến bộ của một quốc gia trên cơ sở suy ra từ chỉ số GDP, đây là một thực tế. Do đó, từ năm 2015 đến nay, nhiều quốc gia tiếp cận tới hệ chỉ số tiến bộ xã hội (SPI) để đánh giá mức độ phồn vinh và hạnh phúc đem đến cho con người. Đây cũng chính là cách thức giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và tiến bộ xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Xét một cách chung nhất, tiến bộ xã hội có thể được tiếp cận dưới nhiều chiều cạnh khác nhau, song về cốt lõi, đó là quá trình đạt được sự phồn vinh về vật chất đi liền với không ngừng cải thiện các giá trị tinh thần của cá nhân và xã hội theo hướng bản chất người hơn. Với nội hàm đó, tiến bộ xã hội phản ánh thiên hướng hệ giá trị gần với tinh thần hệ giá trị xã hội bền vững mà lịch sử loài người mong muốn hướng tới. Với ý nghĩa đó, ngày 09/4/2015 nhóm nghiên cứu Scott Stern - Học viện Công nghệ Massachusetts (Hoa Kỳ) và Tổ chức phi lợi nhuận Social Progress Imperative thống nhất xây dựng và đưa ra bộ chỉ số về tiến bộ xã hội (Social Progress Indext - SPI) làm công cụ định hướng cho quá trình đánh giá trình độ phát triển thực tế của một quốc gia, Bộ chỉ số này không phải thay thế cho chỉ tiêu GDP mà là sự bỏ sung và bao trùm hơn so với chỉ tiêu GDP thuần túy kinh tế.
Về nội hàm phản ánh, SPI không chỉ là yếu tố đo lường sự thay đổi về mặt kinh tế và xã hội mà nó là sự kết hợp trong việc đo lường sự cải thiện đời sống của con người thông qua sự tham gia và cống hiến của các bên khác nhau nhằm mang lại sự tiến bộ của xã hội. Nói cách khác, SPI là khả năng một xã hội có thể đáp ứng được các nhu cầu cần thiết của con người, thiết lập môi trường xã hội để cho phép người dân và cộng đồng nâng cao, duy trì chất lượng cuộc sống của họ, tạo điều kiện cho mọi cá nhân đạt được đầy đủ tiềm năng của mình.
Chỉ số SPI được đo lường dựa vào các yếu tố để xem xét mức độ mà quốc gia có khả năng hay điều kiện đáp ứng như thế nào, cụ thể: GDP theo ngang giá sức mua; nhu cầu cơ bản của con người gồm: thực phẩm, nước, nơi an cư, và an toàn cá nhân; nền tảng phúc lợi: kiến thức cơ bản, thông tin, sức khỏe và môi trường bền vững; cơ hội: quyền của cá nhân, tự do cá nhân và lựa chọn, bao dung và hòa hợp, tiếp cận giáo dục bậc cao. Trong các yếu tố chính này lại được chia thành các tiêu chí nhỏ để tính toán trên thang giá trị từ 0 đến 100. Số liệu thống kê chỉ ra rằng, GDP của quốc gia này cao hơn quốc gia khác nhưng lại thấp hơn về chỉ số SPI, điều này cũng nói lên rằng sự tiến bộ và phát triển của một quốc gia quan trọng hơn là chỉ tăng thu nhập. Chỉ số tiến bộ xã ội cung cấp cho người dân và các nhà hoạch định chính sách một bức tranh rõ hơn và tổng quan hơn về tình hình phát triển của một quốc gia, từ đó sẽ giúp xã hội có những lựa chọn tốt hơn.
Hiện nay, ở các quốc gia châu Mỹ và châu Phi như Braxin, Côlômbia, Paragoay và Êtiôpia.... xem SPI như là một yếu tố cơ bản của kế hoạch phát triển quốc gia. Họ đều có nhận thức chung rằng đây là một công cụ quan trọng và cần thiết được sử dụng để biết làm thế nào đạt được sự tiến bộ xã hội trong một khu vực, quốc gia hay một thành phố. Theo số liệu năm 2017, những quốc gia có chỉ số SPI cao nhất là Niu Dilân, Ôxtrâylia, Canada, Na Uy, Thụy Điển, Đức, Phần Lan, Vương quốc Anh, Aixơlen, Ailen trong số 128 quốc gia được xếp hạng. Điều đáng chú ý là, quốc gia có chỉ số SPI cao đồng thời có chỉ số HDI cao và đương nhiên là GDP cùng cao nhưng lại không đúng với chiều ngược lại[6]. Xét theo nghĩa như vậy, SPI phản ánh bản chất tăng trưởng bao trùm và gắn với giá trị nhân văn của xã hội và đây có thể được xem là chỉ số phản ánh thực chất của việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và tiến bộ xã hội trong bối cảnh hội nhập.
5. Lý thuyết về đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế số
Lý thuyết kinh tế học về đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số được hình thành trong thập kỷ gần đây. Sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 - 2009, các lý thuyết về phát triển của chủ nghĩa tự do mới gặp phải bế tắc về việc làm thế nào tìm được những động lực mới cho sự phát triển trong bối cảnh mới hiện nay, lý thuyết về đổi mới sáng tạo và gần đây là lý thuyết về phát triển kinh tế số dựa trên những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã xuất hiện.
Nhiều nhà kinh tế học, đặc biệt ở các nước tư bản phát triển như Hoa Kỳ, Đức, đã xây dựng các lý thuyết về đổi mới sáng tạo, đặc biệt là các nhà kinh tế Hoa Kỳ đang rất chú ý tới việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, trước hết là đối với nền kinh tế Hoa Kỳ trong điều kiện việc làm giảm sút, năng lực đổi mới của Hoa Kỳ đang giảm tốc tương đối do các pha đổi mới không xuất hiện. Các nhà kinh tế của Hoa Kỳ khẳng định, muốn thích ứng được với bối cảnh phát triển mới, nền kinh tế của Hoa Kỳ cần thực hiện tìm kiếm động lực ở đổi mới sáng tạo.
Về lĩnh vực kinh tế số, hiện đã xuất hiện những lý thuyết về phát triển kinh tế số và thúc đẩy chuyển đổi số. Các nhà kinh tế ở châu Âu đang cổ vũ mạnh mẽ xu hướng phát triển kinh tế số và dựa trên nền tảng đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế chia sẻ. Trong nền kinh tế dựa trên nền tảng số, đòi hỏi sự biến đổi của cả đối tượng sở hữu cũng như loại hình sở hữu. Từ đó đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược phát triển kinh tế số nếu muốn thích ứng được với bối cảnh hiện đại của thế giới. Trong nền kinh tế số, “khi trí tuệ nhân tạo mang tri giác, tức là khi trí tuệ nhân tạo cũng có thể nhận biết các ý tưởng, thì hành động nhận biết ấy của chúng cũng chứa đựng giá trị”[7]. Điều này sẽ làm đảo lộn cách tiếp cận truyển thống về lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong kỷ nguyên số.
[1] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập L.23, tr. 269.
[2] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.4, tr.187
[3] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.46, p. II, tr.372
[4] V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.44, tr.189
[5] Joseph Alois Schumpeter (1883-1950) là nhà kinh tế học, nhà sử học kinh tế và được đào tạo tại Áo. Thuật ngữ sự phá hủy sáng tạo được ông đặt ra lần đầu tiên vào năm 1942
[6] http://www.daibieunhandan.vn/ONA_BDT/NewsPrint.aspx? newsId=400866.
[7] Amir Husain: Cỗ máy tri giác, kỷ nguyên của trí thông minh nhân tạo, Nxb. Công Thương, Hà Nội, 2017, tr.330