Thứ sáu, 22 Tháng 3 2024 11:53

Giới thiệu khái quát về ngân hàng thương mại

Nền kinh tế hàng hóa phát triển cần có sự tham gia của ngân hàng nhằm giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Do sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường đã tác động đến sự biến đổi của hệ thống ngân hàng thương mại từ phương thức hoạt động đơn giản thành các ngân hàng có phương thức hoạt động hiện đại theo mô hình các tập đoàn tài chính khổng lồ, đa quốc gia được liên kết chặt chẽ với nhau tạo nên sự thống nhất trong điều hành và vận hành của hệ thống ngân hàng toàn cầu.

Ngân hàng thương mại được hiểu là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc kết nối giữa tiết kiệm và đầu tư của các tổ chức, cá nhân, thu hút vốn từ nơi nhàn rỗi và dịch chuyển tiền vào nơi khan hiếm. Đâu là dịch vụ tài chính mang tính đặc thù, nó sẽ có sự điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng quốc gia. Tuy nhiên, khái niệm về ngân hàng thương mại vẫn được hiểu theo nghĩa thống nhất là một tổ chức kinh tế chuyên hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và tín dụng, nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế, sau đó thực hiện nghiệp vụ cho vay và đầu tư nhằm mục đích sinh lời, đồng thời thực hiện cung cấp các dịch vụ tài chính, tín dụng và thanh toán cho các tác nhân trong nền kinh tế. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể được định nghĩa thông qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà ngân hàng thực hiện trong nền kinh tế với danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng trong đó hoạt động tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, và thực hiện nhiều chức năng tài chính là hoạt động chính.

Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thông qua việc chuyển các khoản tiết kiệm thành đầu tư, nhằm giải quyết mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp trong nền kinh tế và hạn chế, phân tán rủi ro, giảm thiểu chi phí giao dịch trong hoạt động tín dụng của các tác nhân trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại là thành viên quan trọng trong việc phát triển thị trường trái phiếu, tín phiếu và là nơi huy động vốn thông qua các hoạt động cung cấp các khoản vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho nền kinh tế.

Ngân hàng thương mại thực hiện các khoản thanh toán từ việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ thông qua việc phát hành thẻ thanh toán và cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, ngoài việc phát hành séc.

Hiện nay, công nghệ thương mại điện tử phát triển nên ở hầu hết các quốc gia ngân hàng thương mại đang trở thành trung gian thanh toán lớn nhất thực hiện việc thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ dưới các hình thức như: séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ, thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền khi khách hàng cần. Đây cũng là yếu tố thu hút một khách hàng rất lớn, và ngân hàng thương mại nắm giữ lượng tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có vai trò và uy tín rất lớn trong bảo lãnh cho khách hàng.

Hoạt động tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại được chú trọng để tránh tình trạng khó khăn khăn tài chính phát sinh từ các hoạt động cho vay khó đòi, do Quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoải ngoài dự kiến của nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại thường chú trọng trong việc thẩm định đánh giá lịch sử tín dụng của khách hàng và tính hiệu quả của dự án đầu tư là cho vay có tài sản bảo đảm. Đây là nguyên tắc quyết định tới hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại bởi tài sản bảo đảm trong cho vay không những nâng cao ý thức trách nhiệm sử dụng có hiệu quả vốn vay, ý thức trả nợ đúng hạn của khách hàng mà còn đề phòng khi khách hàng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên, nguyên tắc này vẫn gặp phải những khó khăn nhất định. Chính vì vậy, việc hoàn thiện nguyên tắc công tác này tại các ngân hàng thương mại nói chung cần phải được thực hiện như một biện pháp tạo đà để đẩy nhanh tiến trình lành mạnh hóa hoạt động tài chính của các ngân hàng.

Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại dựa trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi[1] bằng vốn tự tạo lập, vốn huy động thỏa thuận của khách hàng sử dụng trong một thời gian nhất định. Đây là hoạt động quan trọng chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản, và nguồn thu nhập chính từ lãi suất thu về nhưng cũng khá rủi ro, ảnh hưởng đến hoạt động của cả hệ thống ngân hàng thương mại.

Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại được phân thành nhiều loại khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của từng ngân hàng như: cho vay, bảo lãnh ngân hàng, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán...

Nguồn vốn của ngân hàng thương mại được xác định như sau:

Thứ nhất, vốn chủ sở hữu: Vốn này có tính ổn định, là yếu tố quyết định sự hình thành và duy trì hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Do tính chất ổn định của nguồn vốn này, ngân hàng thương mại có thể sử dụng vào các mục đích khác nhau như mua sắm tài sản cố định, cho vay và đặc biệt là tham gia góp vốn liên doanh mua cổ phần... Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng thương mại mà nguồn gốc hình thành vốn chủ sở hữu ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thương mại thuộc sở hữu Nhà nước, ngân sách Nhà nước cấp. Nếu là ngân hàng thương mại cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng thương mại liên doanh do các bên liên doanh góp, ngân hàng tư nhân do vốn thuộc sở hữu tư nhân. Ngân hàng Nhà nước có những văn bản pháp luật cụ thể quy định về vốn điều lệ khi thành lập ngân hàng thương mại.

Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động, ngân hàng thương mại gia tăng vốn của chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể.

Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn 0, chủ sở hữu ngân hàng thương mại có xu hướng gia tăng vốn bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng thương mại về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng thương mại lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu.

Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm... để mở rộng quy mô hoạt động, để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của ngân hàng thương mại do Ngân hàng Nhà nước quy định... Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng thương mại có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.

Các quỹ: Ngân hàng thương mại có nhiều quỹ, mỗi quỹ có một mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng thương mại và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng thương mại có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc... Các quỹ của ngân hàng thương mại thuộc sở hữu của ngân hàng thương mại, nguồn hình thành các quỹ này từ thu nhập của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tùy thuộc vào mục đích sử dụng quỹ.

Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng thương mại do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.

Thứ hai, vốn vay nợ: Vốn nợ là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng và được dùng làm vốn để kinh doanh... Bản chất của nợ là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng thương mại chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu, điều này được thể hiện ở tính thời hạn của khoản vay và tính hoàn trả của nó.

Nói chung nguồn vốn nợ thường dễ biến động, đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn và nguồn tiền gửi không kỳ hạn. Do thời hạn gửi tiền ngắn nên dễ gây sự bất ổn định cho nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Hôm nay, một khoản tiền được gửi vào ngân hàng thương mại nhưng chỉ một thời gian ngắn thì khoản tiền đó bị rút ra gây khó khăn cho ngân hàng thương mại trong việc lập kế hoạch sử dụng vốn. Hoặc đối với loại tiền gửi không kỳ hạn, người gửi tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào nên gây biến động lớn đối với nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Vì vậy, ngân hàng thương mại phải luôn luôn bảo đảm khả năng thanh toán bằng tỷ lệ dự trữ hợp lý. Vốn nợ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại, khoảng 80%. Nội dung của nguồn vốn nợ:

Vốn huy động từ tiền gửi: Đó là những khoản tiền mà các tổ chức kinh tế, cộng đồng dân cư gửi vào ngân hàng thương mại nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu thanh toán, kinh doanh, sinh lời và bảo đảm an toàn tài sản cho mình. Khi một ngân hàng thương mại bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng thương mại huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của người dân. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng thương mại. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng thương mại đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.

Tiền gửi thanh toán: Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng thương mại để nhờ ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thương mại thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của tiền gửi này rất thấp, thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng thương mại mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng, thủ tục mở rất đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng thương mại là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Một số ngân hàng thương mại kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay. Một số ngân hàng thương mại sử dụng nhiều hình thức biến tướng của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.

Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: Nhiều khoản thu nhập của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian nhất định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng thương mại đã đưa ra hình thức riêng gửi có kỳ hạn. Người gửi không được áp dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu người gửi phải đến ngân hàng rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kỳ hạn.

Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có thể tiếp cận với ngân hàng thương mại, họ đều có gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu sinh lời và bảo toàn vốn, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng thương mại đều khuyến khích người dân thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt ở nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Ngân hàng thương mại có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm cho mỗi lần gửi và kỳ hạn khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu ngân hàng thương mại cho phép.

Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, các ngân hàng thương mại có thể gửi tiền ở các ngân hàng khác nhau trong và ngoài nước, tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn.

Vốn vay trên thị trường liên ngân hàng: Đây là nguồn ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng thương mại đang có dự trữ vượt yêu cầu sẽ có thể cho ngân hàng thương mại khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng thương mại đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để bảo đảm thanh khoản. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý. Khoản vay có thể không cần bảo đảm hoặc bảo đảm bằng các chứng khoán của Kho bạc.

Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, ngân hàng thương mại cũng vay mượn bằng việc phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các khoản tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có bảo đảm. Những ngân hàng thương mại có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này. Họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của các ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ... cũng được ngân hàng quan tâm.

Vay Ngân hàng Nhà nước: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, ngân hàng thương mại thường vay Ngân hàng Nhà nước. Hình thức vay chủ yếu của ngân hàng thương mại là tái cấp vốn. Các thương phiếu đã được ngân hàng thương mại chiết khấu trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng thương mại mang những thương phiếu này lên Ngân hàng Nhà nước để tái chiết khấu. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của ngân hàng thương mại giảm đi và dự trữ tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện bảo đảm và kiểm soát nhất định. Thông thường, Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, Ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.

Vốn khác: Đây là nguồn vốn được hình thành thông qua việc ủy thác hoặc đại lý cho các tổ chức trong và ngoài nước hoặc có thể thu hút vốn thông qua các phương tiện thanh toán mà ngân hàng thương mại áp dụng.

Chi phí đầu vào thấp: Trong quá trình thanh toán có một số hình thức phải lưu ký tiền vào một tài khoản riêng.

Chẳng hạn, khi thực hiện hình thức thanh toán séc bảo chỉ, thư tín dụng,... thì khách hàng phải lưu ký tiền vào tài khoản bảo đảm thanh toán. Và những khoản tiền này khi gửi vào các tài khoản riêng đó thì ngân hàng thương mại không phải trả lãi. Hoặc khi thực hiện các dịch vụ đại lý, ủy thác cho các tổ chức, cá nhân, nhận chuyển vốn cho một khách hàng, một dự án đầu tư nào đó thì ngân hàng thương mại cũng có thể sử dụng vốn đó trong thời gian vốn nhàn rỗi mà mất rất ít chi phí về quản lý tài khoản này.

Tính ổn định thấp: Khách hàng lưu ký tiến vào một tài khoản riêng biệt là để phục vụ cho việc thanh toán của mình. Vì vậy, họ có thể sử dụng tài khoản đó vào bất kỳ lúc nào, như vậy ngân hàng thương mại sẽ bị động khi khách hàng rút tiền. Trong khi đó, các khoản tiền của khách hàng thì ngân hàng thương mại lại sử dụng vào hoạt động khác mà chưa kịp thu hồi về, nếu cùng lúc đó luồng tiền rút ra lớn hơn luồng tiền gửi vào, cộng thêm sự bị động trong thanh toán sẽ làm cho ngân hàng thương mại càng gặp khó khăn hơn. Trong quá trình làm trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại cũng tạo ra một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán, gồm: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chỉ, séc định mức, và các khoản tiền phong tỏa do ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại.

Các khoản tiến tạm thời được trích khỏi tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng nên được coi là tiền nhàn rỗi. Thông qua nghiệp vụ đại lý, ngân hàng thương mại cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu, chi hộ khách hàng; nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Do việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ công việc nên ngân hàng thương mại có thể sử dụng tạm thời khoản vốn đó vào kinh doanh.

 


[1] Xem thêm: Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010).

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành