Là một quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và thiên tai, với những nỗ lực không ngừng, Chính phủ và nhân dân Nhật Bản đã đưa nước Nhật Bản hiện tại trở thành cường quốc về kinh tế lớn thứ ba thế giới (sau Mỹ và Trung Quốc) và là một nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới. Nhật Bản dựa trên khai thác hiệu quả nguồn lực của thế giới cũng như phát huy sức mạnh nội lực trong nước và nhờ có những bước đi thích hợp, công nghiệp công nghệ cao Nhật Bản đã có sự đóng góp quan trọng: năm 2000, Nhật Bản dẫn đầu thế giới trong ngành khoa học robot và là quốc gia sở hữu hơn 1/2 (402.200/742.500) số robot cho công nghiệp sản xuất[1].
Tính đến năm 2010, theo thống kê của giới nghiên cứu ở Nga, tỷ phần của 7 nước công nghiệp phát triển G7 (trong đó có Nhật Bản) chiếm 80 - 90% toàn bộ sản phẩm công nghệ cao của thế giới và có 50 công nghệ lớn trên thế giới, trong số đó, Nhật Bản xếp thứ ba (Mỹ có 22 công nghệ lớn, Đức có 8 - 10 công nghệ, Nhật Bản có 7 công nghệ, Pháp có 3 - 5 công nghệ); tổng doanh thu sản phẩm công nghệ cao dân dụng trên thế giới vào khoảng 2.300 tỉ USD, trong số đó, Nhật Bản đứng thứ hai (Mỹ chiếm 39%, Nhật Bản 30%, Đức 16%, Nga chỉ chiếm 0,3%...); về xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao hằng năm, Nhật Bản đứng thứ ba (Mỹ thu về 700 tỉ USD, Đức thu về 530 tỉ USD, Nhật Bản thu về 400 tỉ USD)[2]. Tokyo của Nhật Bản được công nhận là thành phố công nghệ cao, đứng đầu thế giới trong năm 2018. Tại Hội nghị thượng đỉnh G20 năm 2019 (Nhật Bản là nước chủ nhà), Nhật Bản đã giới thiệu nhiều thành tựu khoa học và công nghệ, trong đó có lĩnh vực công nghệ cao với nhiều sản phẩm như: bàn tay robot, máy bay dân dụng, máy bỏ rác thải không gian, trong đó phần lớn sản phẩm lần đầu xuất hiện hoặc chưa từng thấy bên ngoài Nhật Bản.
1. Về chiến lược phát triển
Nhật Bản linh hoạt, mềm dẻo trong điều chỉnh chiến lược phát triển công nghiệp. Sự nhanh nhạy nắm bắt các cơ hội do công nghệ cao mang lại của Chính phủ Nhật Bản được bắt đầu thực hiện sau khi phát triển thành công các ngành công nghiệp nặng như luyện thép và chế tạo xe hơi... Trên cơ sở các dự đoán về thị trường, xu hướng phát triển của khoa học công nghệ, Nhật Bản có sự chuyển hướng từ các ngành công nghiệp cần nhiều lao động sang các ngành có hàm lượng công nghệ cao. Theo đó, Chính phủ Nhật Bản ban đầu hỗ trợ mạnh mẽ cho các công ty chuyển hướng sang phát triển các lĩnh vực công nghệ cao, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong nấc thang phát triển của quốc gia này.
Ngày nay, đối diện với tình trạng dân số giảm và giải quyết các vấn nạn môi trường toàn cầu, Nhật Bản đã đã ra chiến lược và chính sách công nghiệp trước cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để duy trì tăng trưởng kinh tế. Do đó, năm 2014, Nhật Bản đã làm mới Kế hoạch cụm công nghiệp của mình để phục hồi ngành công nghiệp và các vùng của Nhật Bản. Theo đó, Nhật Bản đang tập trung vào những ngành dựa trên thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như công nghiệp sản xuất robot và công nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao trong y học... Mục tiêu mà Nhật Bản đặt ra đến năm 2020 là sẽ đầu tư lên đến 2,4 nghìn tỉ yên cho ngành công nghiệp thông minh. Với nền tảng khoa học, công nghệ cao đã có sẵn, Nhật Bản là một trong những quốc gia đi đầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hiện nay đang tập trung nghiên cứu các lĩnh vực công nghệ gắn liền với cuộc cách mạng này và coi ngành sản xuất robot trở thành trụ cột chính trong chiến lược tăng trưởng kinh tế đất nước.
2. Về môi trường phát triển khoa học - công nghệ
Nhật Bản đã tạo môi trường thuận lợi để phát triển khoa học - công nghệ. Chiến lược phát triển công nghiệp công nghệ cao của Nhật Bản là phát triển năng lực nội sinh để tạo ra các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao phục vụ xuất khẩu nên Nhật Bản đặc biệt chú trọng đến các hoạt động khoa học - công nghệ. Theo đó, nhằm tăng cường quản lý và điều hành vĩ mô đối với sự phát triển khoa học - công nghệ, năm 2005, Nhật Bản đã thông qua Luật cơ bản về khoa học - công nghệ; năm 2007, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định sáp nhập Cục Khoa học công nghệ vào Bộ Văn hóa giáo dục thành Bộ Giáo dục, Khoa học và Công nghệ.
Để tạo sự liên kết, hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trường đại học với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao, ngay từ năm 1970, Nhật Bản đã thành lập thành phố khoa học Tsukuba, là nơi đã thu hút các viện nghiên cứu và đào tạo, các khu công nghiệp, các hãng sản xuất và cán bộ nghiên cứu. Năm 2001, Nhật Bản đã thành lập Trung tâm quốc gia về công nghệ cao trong thành phố khoa học này và ban hành cơ chế tự quản đối với Trung tâm, tạo điều kiện thuận lợi để Trung tâm có mối quan hệ chặt chẽ nhưng không trực thuộc với Bộ Kinh tế và Công thương Nhật Bản, có mạng lưới liên kết với các trung tâm khoa hoc và các trường đại học trong cả nước.
3. Về đầu tư nghiên cứu và phát triển
Nhật Bản tăng mức đầu tư nghiên cứu và phát triển theo hướng gắn khoa học - công nghệ với sản xuất. Với mục tiêu thúc đẩy phát triển công nghệ tiên tiến vào bậc nhất thế giới và công nghệ cao nên Chính phủ Nhật Bản chuyển hướng trọng tâm sang đầu tư các dự án nghiên cứu và phát triển quốc gia để nâng cao trình độ khoa học, công nghệ; bao gồm các chương trình tăng cường các dự án đầu tư nghiên cứu và phát triển cho cả khu vực công và tư nhân, đào tạo nguồn nhân lực nghiên cứu và phát triển trình độ cao. Nhật Bản đã đặc biệt chú trọng đến hoạt động nghiên cứu cơ bản trong nước, trong đó ưu tiên những lĩnh vực công nghệ cao mang tính thương mại cao, đẩy mạnh các hoạt động truyền bá thông tin liên quan đến phát triển công nghệ và chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp, khuyến khích các nhà nghiên cứu thuộc khu vực nhà nước và các trường đại học tham gia vào các hoạt động phát triển công nghiệp công nghệ cao của khu vực tư nhân.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Chính phủ Nhật Bản đã lập kế hoạch tài trợ cho nghiên cứu và phát triển. Theo đó, Nhật Bản đã dành những nguồn ngân sách từ chính phủ để hỗ trợ cho các dự án nghiên cứu và phát triển: Hội đồng khoa học và công nghệ Nhật Bản đã chi 17 nghìn tỉ yên cho nghiên cứu và phát triển trong giai đoạn 1995 - 2000, và trong những năm này, kinh phí dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển liên tục được nâng cao, từ 2,3% GDP năm 1995 lên 3,1% GDP năm 2000[3], năm 2015 với kinh phí là 155 tỉ USD, chiếm 3,29% GDP[4].
Nghiên cứu khoa học ở Nhật Bản phải gắn với sản xuất, nghĩa là phải được áp dụng vào sản xuất để mang lại tính cạnh tranh cao trên thị trường. Nhật Bản đã chú trọng đầu tư nghiên cứu công nghệ cao đối với những ngành có hiệu quả thiết thực, chẳng hạn để phát triển ngành điện tử, Nhật Bản chú trọng đầu tư nghiên cứu và phát triển lĩnh vực công nghệ cao ngành vi mạch ngành này mỗi năm đem lại cho Nhật Bản khoảng 1 tỉ USD lợi nhuận, cao hơn cả ngành luyện thép truyền thống.
Tuy nhiên, nguồn tài trợ chủ yếu cho nghiên cứu và phát triển ở Nhật Bản lại chủ yếu từ bản thân các doanh nghiệp bởi nguồn tài trợ của chính phủ chỉ là nguồn kinh phí rất nhỏ so với ngân sách dành cho nghiên cứu và phát triển của một số nước như Mỹ, Anh, Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức... Để có được công nghệ cao ứng dụng vào sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì bản thân các doanh nghiệp ở Nhật Bản phải đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, hướng đến giá trị thương mại của sản phẩm. Ở Nhật Bản, có 4 loại hình tham gia nghiên cứu khoa học, bao gồm: khoa học - công nghệ hàn lâm; khoa học - công nghệ chính phủ; khoa học - công nghệ doanh nghiệp và khoa học - công nghệ bình dân; trong đó, khoa học - công nghệ doanh nghiệp đóng vai trò chủ thể chính của sự gắn kết hoạt động nghiên cứu và phát triển với thực tế. Vì vậy, các chính sách khuyến khích và đẩy mạnh gắn kết nghiên cứu và phát triển công nghệ cao với thực tế được hướng vào khoa học - công nghệ doanh nghiệp là chủ yếu. Để tăng cường sự khuyến khích này, Nhật Bản ban hành các chính sách hỗ trợ cho các cơ sở tư nhân nghiên cứu khoa học - công nghệ, những cơ sở nghiên cứu này được đối xử bình đẳng như các trường đại học và viện nghiên cứu công lập.
Nhật Bản điều chỉnh những chính sách thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ sở nghiên cứu trong lĩnh vực nhà nước, trong đó khuyến khích thành lập và tạo môi trường thuận lợi cho các cơ sở nghiên cứu tư nhân trong các viện nghiên cứu này. Chính vì vậy, các viện nghiên cứu của Nhật Bản phát triển rất nhanh, góp phần hiệu quả trong nghiên cứu và phát triển công nghệ cao, gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Hiện nay, ở góc độ quản lý, Chính phủ Nhật Bản cũng đã từng bước đưa ra và triển khai các chính sách thúc đẩy công nghệ, coi các tập đoàn lớn của Nhật Bản là động lực chính trong việc triển khai các sáng kiến công nghệ liên quan đến cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, khoa học - công nghệ Nhật Bản tập trung nghiên cứu vào những lĩnh vực đột phá mới nổi như trí tuệ nhân tạo (AI), BigData, Blockchain hoặc Internet of Things. Chính vì vậy, Nhật Bản không chỉ đầu tư số tiền lớn vào việc phát triển các robot nhanh hơn và mạnh hơn mà còn tài trợ cho một môi trường thông minh hoàn toàn mới, tạo ra không gian sống an toàn và tích cực cho các công dân Nhật Bản.
4. Về chính sách
Nhật Bản ban hành các chính sách bảo hộ cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao trong nước. Nhằm phát triển công nghiệp công nghệ cao, Chính phủ Nhật Bản đã cho phép thành lập hàng loạt các công ty sản xuất sản phẩm công nghệ cao và ban hành nhiều chính sách bảo vệ thị trường trong nước, tránh sự cạnh tranh của nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho các công ty này hoạt động. Các chính sách bảo hộ này đã áp dụng các giải pháp vừa cung cấp tài chính, vừa hỗ trợ mua công nghệ của nước ngoài, được duy trì cho đến khi các công ty này đủ năng lực và sẵn sàng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Dưới sự hỗ trợ đắc lực của Chính phủ, các công ty sản xuất sản phẩm công nghệ cao ở Nhật Bản đã nhanh chóng trở thành những tập đoàn sản xuất sản phẩm công nghệ cao toàn cầu hùng mạnh và tiên tiến, đã chiếm lĩnh được những thị phần rất lớn trên thị trường quốc tế về các sản phẩm công nghệ cao. Theo số liệu thống kê năm 2001, Nhật Bản chiếm đến 17% tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao của thế giới, trong đó nổi trội nhất là các mặt hàng điện tử - viễn thông, máy tính và thiết bị văn phòng[5]. Cho đến nay, Nhật Bản đã có rất nhiều phát minh đóng góp to lớn cho sự thay đổi của thế giới như: công nghệ in 3D, chiếc bánh xe Toyota Corolla bán chạy nhất mọi thời đại, chiếc gậy selfie đầu tiên trên thế giới, hệ thống định vị trên ôtô hay hình ảnh Pokemon làm khuynh đảo thế giới... Những sáng tạo công nghệ này đã chứng minh những bước đi táo bạo và phát minh công nghệ trước thời đại hàng chục năm, thậm chí cả trăm năm của người Nhật Bản. Các sản phẩm công nghệ cao mang thương hiệu Nhật Bản cũng vì thế vươn xa trên toàn cầu, phát triển một cách bền vững.
Trong những năm gần đây, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao của Nhật Bản phải đối mặt với thách thức ngày càng tăng từ các đối thủ trên thị trường thế giới. Vì vậy, Chính phủ Nhật Bản phải tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ bằng việc sẽ thắt chặt kiểm soát thông qua các quy tắc với doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào công ty công nghệ trong nước. Theo đó, từ tháng 8/2019, nhà đầu tư nước ngoài phải có sự chấp thuận từ Chính phủ Nhật Bản nếu muốn mua cổ phần của các công ty nằm trong danh sách 20 lĩnh vực được kiểm soát.
5. Về kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế
Nhật Bản phát triển công nghiệp công nghệ cao dựa trên sự tương tác năng động của hai hệ thống nội lực và ngoại lực, đồng thời chuyển hóa thành công các yếu tố ngoại lực thành nội lực. Nhằm phát triển công nghiệp công nghệ cao, Chính phủ Nhật Bản tiến hành nhiều biện pháp nhằm khai thác tối đa nguồn lực từ nước ngoài và làm cho công nghệ cao thích ứng với điều kiện Nhật Bản. Nhật Bản tiếp tục theo phương châm kết hợp “kỹ thuật phương Tây” với “tinh thần Nhật Bản”, cụ thể là trong chuyển giao và ứng dụng, phát triển công nghệ cao, Nhật Bản đã đi theo cách riêng của mình. Để thu được công nghệ cao chuyển giao vào sản xuất, Nhật Bản áp dụng nhiều hình thức như: nhập khẩu trực tiếp công nghệ, mua bằng phát minh sáng chế, khuyến khích người dân Nhật Bản đi du học để tiếp thu những tri thức mới của phương Tây, và “nhập khẩu” cả chuyên gia giỏi từ nhiều nước khác nhau trên thế giới.
Tuy nhiên, đối với nhập khẩu công nghệ cao, Nhật Bản không thụ động tiếp nhận, mà còn sáng chế công nghệ cao dựa trên công nghệ đã nhập. Theo đó, Nhật Bản không bắt chước nguyên mẫu sản phẩm công nghệ cao của nước ngoài, mà luôn tìm cách cải tiến công nghệ nhập khẩu để thích nghi chúng. Dựa trên những phát minh sáng chế được nhập khẩu, Nhật Bản đã triển khai, hoặc nghiên cứu, bắt chước sản xuất sản phẩm công nghệ cao, tạo ra sản phẩm công nghệ cao mang thương hiệu của Nhật Bản.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành các chính sách nhằm thu hút nhân tài nước ngoài bằng chế độ lương bổng ưu đãi; khuyến khích các cá nhân và tổ chức tiếp cận với những người nước ngoài có bằng sáng chế và có bản quyền thích hợp, thu hút họ đến Nhật Bản làm việc; thu hút trở lại những người đi du học ở nước ngoài... Bằng cách đó, số chuyên gia về lĩnh vực công nghệ cao nước ngoài đến làm việc tại Nhật Bản ngày càng nhiều. Đồng thời, Nhật Bản không chỉ học tập nước ngoài về kỹ thuật, công nghệ, mà họ học tất cả các mặt tiên tiến khác như: thể chế kinh tế, kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm phát triển giáo dục... liên quan đến công nghiệp công nghệ cao.
[1] Xem Nguyễn Văn Dậy, Nguyễn Hải Hà, Đoàn Thị Thu Hằng: “Kinh nghiệm của Mỹ và Nhật Bản trong việc gắn khoa học, công nghệ với thực tiễn”, tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 19/2014, tr. 52-55.
[2] Xem Lê Thế Mẫu: “Vị trí của Nga trên thị trường công nghệ cao của thế giới", http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/The-gioi- van-de-su-kien/2010/2925/Vi-tri-cua-Nga-tren-thi-truong-cong- nghe-cao-cua-the-gioi.aspx, ngày 30/11/2010.
[3] Xem Bộ Công Thương - Viện Nghiên cứu điện tử, tự động, tin học hóa: Báo cáo tổng kết đề tài cấp bộ năm 2007: “Nghiên cứu xây dựng danh mục các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao của Việt Nam giai đoạn đến năm 2020", 2007, tr. 62
[4]Xem Nguyễn Tiến: “Quốc gia và công ty nào chỉ nhiều tiền nhất cho hoạt động R&D?", ngày 18/10/2017, https://m.viettimes.vn/ quoc-gia-va-cong-ty-nao-chi-nhieu-tien-nhat-cho-hoat-dong-rd-142397.html.
[5] Xem Bộ Công Thương - Viện Nghiên cứu điện tử, tự động, tin học hóa: Báo cáo tổng kết đề tài cấp bộ năm 2007: “Nghiên cứu xây dựng danh mục các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao của Việt Nam giai đoạn đến năm 2020", Tldd, tr.62.