Thứ hai, 20 Tháng 10 2014 00:00

Chính sách an sinh xã hội trong bối cảnh tái cấu trúc kinh tế

1. Những thành tựu trong thời gian qua:

Sau 2 thập kỷ thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, nước ta đã đạt được những thành tựu phát triển đáng khích lệ trên nhiều mặt. Trong giai đoạn 1990-2008, kinh tế duy trì ở mức tăng trưởng cao và ổn định, bình quân tăng trên 7%/năm, GDP bình quân đầu người cũng từ mức chỉ 100 USD đã tăng lên trên 1000 USD. Tỷ lệ nghèo từ 58% năm 1993 nay giảm xuống chỉ còn khoảng 11%. Tổng tỷ suất sinh từ 3,8 vào năm 1989 đã đạt mức sinh thay thế 2,1 vào đầu những năm 2000. Tuổi thọ trung bình của người dân hiện nay là 73,1 tuổi so với chỉ khoảng 65 tuổi vào cuối thập niên 1980. Đạt được những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội như trên phải kể đến sự đóng góp có hiệu quả trong triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách an sinh xã hội của Nhà nước, sự đồng thuận của nhân dân và sự hỗ trợ nguồn lực của các đối tác xã hội và cộng đồng quốc tế.

Trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục phấn đấu duy trì đà tăng trưởng kinh tế cao và ổn định ở mức bình quân 7-8%/năm để trở thành quốc gia thuộc nhóm các nước và vùng lãnh thổ có thu nhập trung bình vào năm 2020. Mặt khác, nước ta bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng với dân số trong tuổi lao động chiếm 2/3 dân số cả nước trong khoảng thời gian từ 2010-2040 sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước, nâng cao mức sống và gia tăng khả năng tích lũy cho người dân. Đây là cơ sở để chúng ta có đủ nguồn lực phát triển một hệ thống an sinh xã hội toàn diện hơn, góp phần thực hiện các mục tiêu về phát triển xã hội bền vững.

2. Những thách thức:

Cùng với quá trình chuyển đổi kinh tế, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc, mới phát sinh chưa được giải đáp một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Hệ thống chính sách, luật pháp về an sinh xã hội theo mô hình Nhà nước phúc lợi không theo kịp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và xu hướng phát triển của quốc tế.

Các nguy cơ và rủi ro kinh tế và xã hội ngày càng có xu hướng tăng. Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu khắc nghiệt, thường xảy ra mưa, bão, lũ lụt, địa hình khó khăn với nhiều sông suối, núi non hiểm trở dễ dẫn đến rủi ro, ảnh hưởng đến sinh kế, thu nhập của người dân. Đặc biệt, khí hậu toàn cầu biến đổi, nhiệt độ trái đất tăng kèm theo hiện tượng nước biển dâng đặt ra những thách thức mới về an sinh xã hội.

Theo ước tính của Uỷ ban Quốc gia Người cao tuổi, tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ là 16% vào năm 2020 và tiếp tục gia tăng trong những năm sau đó. Xu hướng già hoá dân số đặt ra thách thức về tính bền vững của các chính sách an sinh xã hội hiện hành.

Mức hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế giữa các nhóm dân cư còn nhiều bất cập nhất là với nhóm người nghèo, người dân tộc ít người sống ở vùng sâu, vùng xa. Hệ thống dịch vụ xã hội còn nhiều yếu kém. Các chính sách thị trường lao động, chính sách bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội có phạm vi bao phủ còn thấp. Mức đóng, mức hưởng bảo hiểm xã hội còn chưa hợp lý, chưa đảm bảo đời sống cho các nhóm đối tượng thụ hưởng. Mức độ bền vững về tài chính, tính liên kết giữa các chế độ, chính sách an sinh xã hội còn nhiều bất cập. Việc theo dõi, giám sát đối tượng còn nhiều khó khăn.

Các rủi ro kinh tế, xã hội trên toàn cầu ngày càng đa dạng, phức tạp và có diện ảnh hưởng rộng. Tác động tiêu cực của những cú sốc khó lường trước từ bên ngoài ngày càng nhanh và mạnh trong điều kiện chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm phòng chống rủi ro trong bối cảnh toàn cầu hóa và còn hạn chế về nguồn lực dành cho các hoạt động phòng chống.

Các nhóm yếu thế ngày càng trở nên yếu thế và dễ bị tổn thương hơn do hạn chế về khả năng cạnh tranh, về phòng ngừa rủi ro trên thương trường. Các dòng di chuyển việc làm, di chuyển nhân công từ nông thôn ra đô thị, từ vùng này sang vùng khác, từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại,… diễn ra với cường độ ngày càng mạnh. Xu hướng này tạo áp lực trong việc đảm bảo quyền và cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, quyền thụ hưởng các chính sách an sinh của người dân, nhất là các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương.

Các nhóm đối tượng của an sinh xã hội sẽ ngày càng đa dạng, đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng, đa lớp, linh hoạt và có khả năng hỗ trợ lẫn nhau, hỗ trợ kịp thời để đảm bảo “…Mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có một mức tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội, bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa bụa, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác” theo tinh thần của Điều 25, Hiến chương Liên hợp quốc năm 1948 về quyền con người.

Đảm bảo an sinh xã hội theo Điều 25, Hiến chương Liên hợp quốc, hệ thống an sinh xã hội của nước ta trong giai đoạn phát triển mới sẽ dần chuyển từ mô hình Nhà nước phúc lợi sang mô hình Nhà nước xã hội. Nhà nước sẽ tạo môi trường và cơ chế thuận lợi hơn cho người dân và các đối tác xã hội tham gia vào hệ thống. Vai trò của các chủ thể tham gia hệ thống an sinh xã hội sẽ được tăng cường. Hệ thống sẽ được mở rộng từ chủ yếu hỗ trợ người dân bị các rủi ro thiên tai và rủi ro chu kỳ sống sang chủ động phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục cả các rủi ro khác như rủi ro kinh tế, rủi ro xã hội…

3. Một số ý kiến hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội thời gian tới:

Hỗ trợ tốt hơn cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người khuyết tật, người thất nghiệp, thanh niên lần đầu tham gia thị trường lao động và các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương khác có việc làm, tạo thu nhập và có cơ hội tham gia vào khu vực kinh tế chính thức thông qua các chính sách, chương trình hợp lý. Tín dụng tạo việc làm và phát triển việc làm theo hướng bền vững thông qua Quỹ Quốc gia về việc làm và các chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, chương trình hỗ trợ doanh nhân ở các vùng khó khăn.

Giáo dục, đào tạo, dạy nghề cho dân cư và thực hiện hỗ trợ đối với các nhóm đối tượng yếu thế để họ có điều kiện và cơ hội nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp và gia tăng khả năng chuyển đổi việc làm, nhất là việc làm từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức. Đưa lao động đi làm việc có thời hạn theo hợp đồng lao động ở nước ngoài và thực hiện hỗ trợ tín dụng học nghề, học ngoại ngữ, thông tin về thị trường lao động ngoài nước, thủ tục đi làm việc ở nước ngoài đối với người nghèo, người dân tộc ở các vùng sâu, vùng xa. Thu hút lao động vào làm việc tạm thời trong các công trình công khi xảy ra các cú sốc kinh tế; đồng thời cũng là cơ hội cho lao động trẻ, lao động mới lần đầu tham gia thị trường lao động tích lũy kinh nghiệm làm việc và nâng cao kỹ năng thực hành.

Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, hướng nghiệp, đào tạo và dạy nghề. Tạo cơ hội và hỗ trợ để các nhóm lao động yếu thế, người dân ở vùng sâu, vùng xa tiếp cận được các thông tin liên quan đến việc làm, hướng nghiệp, đào tạo và dạy nghề. Thúc đẩy chương trình bảo hiểm thất nghiệp hoạt động có hiệu quả để hỗ trợ kịp thời người lao động bị mất việc làm ổn định cuộc sống và sớm trở lại thị trường lao động.

Mở rộng độ bao phủ của các chương trình bảo hiểm và bảo đảm an toàn quĩ để giảm thiểu mức độ rủi ro trong trường hợp đối tượng tham gia và gia đình họ bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Cải cách các thông số bảo hiểm xã hội hiện hành để đảm bảo tính an toàn của quĩ bảo hiểm trong bối cảnh già hóa dân số đang diễn ra và cải thiện tình trạng bất bình đẳng về mức đóng góp và thụ hưởng giữa đối tượng tham gia ở khu vực kinh tế Nhà nước và ngoài Nhà nước, giữa thế hệ trẻ và thế hệ già. Hỗ trợ một phần phí đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện cho lao động có thu nhập thấp không thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc để họ có đủ năng lực tài chính tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, tránh bị rơi vào vòng nghèo đói khi về già sẽ gia tăng gánh nặng lên ngân sách Nhà nước.

Bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cho lao động trên 40 tuổi đối với nữ và 45 tuổi đối với nam lần đầu tham gia bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi đến tuổi nghỉ hưu trên cơ sở qui định mức đóng tối thiểu cho họ mà không ràng buộc về thời gian phải có 20 năm tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện để gia tăng độ bao phủ và nâng cao tính chủ động của người dân tham gia vào hệ thống. Thúc đẩy cơ chế khám chữa bệnh của khu vực y tế tư nhân cho đối tượng có thẻ bảo hiểm y tế để giảm thiểu tình trạng quá tải của khu vực Nhà nước trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Hoàn thiện các cơ chế hỗ trợ phí tham gia bảo hiểm y tế một cách hợp lý đối với các nhóm đối tượng dân cư khác nhau để thu hút người dân tham gia bảo hiểm y tế, hướng đến mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2014 theo Luật Bảo hiểm Y tế đề ra. Nâng cao chất lượng chăm sóc y tế nhất là ở tuyến y tế cơ sở, ở các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, huyện nghèo. Xây dựng mã số cá nhân cho các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế để đảm bảo tốt nhất quyền được tham gia và thụ hưởng các chính sách bảo hiểm của người dân, giảm thiểu tối đa các thủ tục hành chính khi người dân nói chung và người lao động nói riêng thay đổi việc làm, di chuyển từ khu vực kinh tế này sang khu vực kinh tế khác, từ vùng này sang vùng khác.

Mở rộng hệ thống trợ giúp xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống để ứng phó kịp thời với các biến cố và rủi ro, góp phần giảm nghèo bền vững và bảo vệ các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Đa dạng hóa các hình thức trợ cấp, tăng cường vai trò của các hình thức trợ cấp có điều kiện để nâng cao hiệu quả hỗ trợ vì mục tiêu phát triển con người, cộng đồng và xã hội một cách toàn diện và bền vững. Gắn mức trợ cấp với mức sống tối thiểu và từng bước mở rộng điều kiện hưởng phù hợp với mức độ phát triển kinh tế từng thời kỳ, tiến tới đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống của dân cư về ăn, ở, nước sinh hoạt, điện, thông tin, nhà vệ sinh…

Đổi mới phương pháp tiếp cận xây dựng chương trình giảm nghèo và hỗ trợ hộ nghèo một cách đồng bộ hơn để giảm nghèo bền vững và giảm tình trạng bất bình đẳng về mức sống và các cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội giữa các nhóm dân cư trong nội vùng và giữa các vùng. Hoàn thiện và đa dạng hóa các chương trình hỗ trợ đặc thù cho các nhóm đối tượng yếu thế như chương trình hỗ trợ giáo dục cho trẻ em nghèo; chương trình tín dụng ưu đãi và dạy nghề cho phụ nữ nghèo; chương trình nhà ở cộng đồng cho các nạn nhân bị bạo hành gia đình, bị lạm dụng; chương trình hội nhập cộng đồng cho các đối tượng ma túy, mại dâm, các đối tượng bị bệnh xã hội… Thúc đẩy các chương trình quản lý và phát triển xã hội dựa vào cộng đồng thông qua các cơ chế khuyến khích sự tham gia của các đối tác xã hội vào các chương trình chăm sóc người già cô đơn, trẻ em và các đối tượng yếu thế khác không có nơi nương tựa.

Ngoài ra, công tác phổ biến, tuyên truyền về các chủ trương của Đảng và chính sách an sinh xã hội của Nhà nước phải được triển khai đồng bộ hơn, thông qua nhiều kênh với nhiều hình thức nhằm nâng cao nhận thức của người dân, góp phần thực hiện thành công các chính sách, chương trình an sinh xã hội vì một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành