In trang này
Thứ ba, 06 Tháng 8 2024 01:44

Khái quát chung về quy định của pháp luật về đầu tư, kinh doanh liên quan đến tiền ảo tại Việt Nam

1. Khái quát chung

Hiến pháp 2013, điều 33 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, hiện tại theo quy định của pháp luật Việt Nam thì chưa có quy định nào của pháp luật cấm kinh doanh tiền ảo tại thời điểm này. Như vậy, trên cơ sở sự ghi nhận của Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do kinh doanh cho thấy việc kinh doanh, buôn bán, trao đổi các đồng tiền ảo không nhằm mục đích thanh toán là hoàn toàn hợp pháp.

Khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm, theo đó kinh doanh tiền ảo là một trong những hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014. Như vậy, doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm. Theo những quy định được phân tích ở trên, chỉ trong trường hợp việc sử dụng tiền ảo nhằm mục đích thanh toán mới bị cấm tại Việt Nam. Trường hợp các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh, mua bán, chuyển nhượng, huy động vốn hoặc góp vốn bằng tiền ảo thì không bị cấm bởi đó là quyền mà Luật Doanh nghiệp năm 2014 ghi nhận cho các doanh nghiệp được hưởng. Sự ghi nhận này hoàn toàn phù hợp với Điều 33 Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm.

Cũng có thể thấy rằng, đầu tư vào tiền ảo là hợp pháp theo quy định của Luật Đầu tư. Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014, được sửa đổi, bổ sung năm 2016 (Luật Đầu tư), về chính sách của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư kinh doanh thì chủ thể được thực hiện hoạt động đầu tư được đầu tư kinh doanh các ngành, nghề mà Luật Đầu tư không cấm 108. Trong các ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh tại Điều 6 Luật Đầu tư và ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được liệt kê tại Điều 7 Luật Đầu tư đều không liệt kê hoạt động kinh doanh liên quan đến tiền ảo. Như vậy, theo những quy định trong Luật Đầu tư, các hoạt động kinh doanh liên quan đến tiền ảo không bị coi là ngành, nghề cấm kinh doanh. Do vậy, nếu các nhà đầu tư sử dụng tiền ảo như một công cụ đầu tư kinh doanh mà không nhằm mục đích làm phương tiện thanh toán thì sẽ hoàn toàn hợp pháp và được chấp nhận tại Việt Nam.

Theo quy định tại Điều 25 Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện, Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định số 59/2006/NĐ-CP thì tiền ảo không thuộc danh mục các hàng hoá bị cấm kinh doanh, không thuộc danh mục hàng hoá kinh doanh có điều kiện. Như vậy, về lý thuyết, các quy định liên quan đến Khoản 1 Điều 5 Luật Đầu tư, hoạt động đầu tư, kinh doanh như đã liệt kê ở trên đều không có quy định cẩm kinh doanh, đầu tư liên quan đến các đồng tiền ảo. Theo đó, các chủ thể có quyền tự do kinh doanh, chuyển nhượng, góp vốn, huy động vốn đầu tư... bằng các đồng tiền áo. Tuy nhiên, về thực tế áp dụng các quy phạm pháp luật này vào việc giải quyết các tranh chấp về đầu tư, kinh doanh tiền áo phát sinh trên thực tế lại là vấn đề đang còn tranh cãi. Nếu các bên chủ thể tham gia quan hệ đầu tư, kinh doanh bằng tiền ảo tuân thủ cam kết mà không dẫn tới tranh chấp thì không phải là vấn đề cần quan tâm. Tuy nhiên, khi một trong các chủ thể thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh mà vi phạm cam kết, chủ thể bị vi phạm có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng chế tài để buộc chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm không.

Đặc tính kinh doanh tiền ảo là việc các chủ thể tham gia được ẩn danh vì vậy nhiều trường hợp chủ thể bị vi phạm không thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của mình, bởi không thể xác định được danh tính của chủ thể xâm phạm quyền.

Trường hợp các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư, kinh doanh đều được xác định danh tính, việc áp dụng các chế tài thương mại cũng không hề đơn giản. Cơ quan có thẩm quyền sẽ phải lựa chọn một trong các loại chế tài phù hợp được quy định tại Điều 292 Luật Thương mại năm 2005 để áp dụng với chủ thể bị vi phạm. Như vậy, có thể thấy điều này vô cùng khó, thậm chí là không thể thực hiện được, bởi vì khi chưa có khung pháp lý về tiền ảo thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thể xác định quyền yêu cầu của chủ thể là yêu cầu đòi lại cái gì, yêu cầu bồi thường cái gì, buộc thực hiện đúng hợp đồng gì...

Như vậy, với những phân tích, đánh giá trên, một lần nữa có thể khẳng định rằng việc chưa ban hành khung pháp lý về tiền ảo nói chung, chưa công nhận tiền ảo là tài sản nói riêng khiến cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh của các chủ thể mặc dù vẫn hợp pháp nhưng lại gặp nhiều vấn đề về mặt pháp lý khi phát sinh tranh chấp. Khi tranh chấp xảy ra, việc giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền gặp nhiều khó khăn trong việc đưa ra phán quyết phù hợp với quy định và phù hợp cả với thực tiễn. Nếu giải quyết theo quy định của pháp luật thì sẽ bác yêu cầu của đương sự, nhưng lại không giải quyết được các xung đột thực tế về mặt lợi ích giữa các chủ thể. Khi đó, hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật sẽ bị giảm sút một cách đáng kể. Nếu giải quyết phù hợp với thực tiễn thì lại không có cơ sở pháp lý rõ ràng để viện dẫn, khiến cho việc giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dễ rơi vào tình trạng tuỳ tiện, không minh bạch, không công bằng và thiếu khách quan. Sự bất cập này chính là “rào cản” lớn cho sự phát triển và mở rộng các hoạt động, các loại hình kinh doanh hợp pháp. Sâu xa hơn, sự bất cập này chính là “rào cản” cho sự phát triển kinh tế Việt Nam, làm chậm quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới.

Ở phương diện lý luận, pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể, làm cho các quan hệ phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của nhà nước. Ở một góc độ nào đó, pháp luật là công cụ để nhà nước quản lý xã hội, nhằm tạo ra cơ chế quản lý đủ sức để điều tiết các quan hệ. Đồng thời, pháp luật cũng là phương tiện bảo đảm sự cân bằng về lợi ích và giải quyết các xung đột về lợi ích giữa các chủ thể. Giá trị thực tiễn của một quy phạm pháp luật được thể hiện khi nó điều tiết được các mối quan hệ và giải quyết được các vấn đề trong xã hội, trong đó có vấn đề xung đột về mặt lợi ích.

2. Một số quy định cụ thể của Nhà nước liên quan đến tiền ảo

Thông cáo báo chí của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về tiền ảo

Ngày 27/02/2014, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lần đầu tiên ra Thông cáo báo chí về Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác[1]. Nội dung của Thông cáo tập trung một số vấn đề cơ bản như sau:

Một là, thông cáo này khẳng định Bitcoin là một dạng tiền kỹ thuật số (tiền ảo), với tính chất như vậy, nó không được phát hành bởi chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được tạo ra và vận hành dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet ngang hàng.

Hai là, Ngân hàng nhà nước cho rằng sự xuất hiện của Bitcoin đã gây ra rủi ro tiềm ẩn cho người sử dụng như: Có thể là hoạt động rửa tiền bất hợp pháp, trốn thuế, kinh doanh bất hợp pháp. Do đó, người tham gia ẩn danh có thể bị tấn công tài khoản, thông tin cá nhân, ăn cắp dữ liệu cá nhân hoặc thay đổi dữ liệu cá nhân… Hoạt động giao dịch, kinh doanh Bitcoin có thể tạo bong bóng cho thị trường kinh doanh, làm nhà đầu tư bị thiệt hại dẫn tới việc mất cân bằng thị trường kinh tế, rối loạn thị trường. Bên cạnh đó, ở Việt Nam cơ quan quản lý nhà nước chưa có quy định quản lý hoạt động này do đó, người tham gia giao dịch, kinh doanh Bitcoin chịu nhiều nguy hiểm, rủi ro và không được bảo vệ quyền lợi.

Ba là, ngoài ra, việc sử dụng tiền ảo nói chung làm phương tiện tham gia giao dịch, thanh toán còn chưa được hệ thống pháp luật và cơ quan nhà nước thừa nhận, bảo vệ. Ngân hàng, các tổ chức tín dụng chưa được quy định công nhận là phương tiện thanh khoản trong hoạt động của mình.

Bên cạnh đó, Ngày 28/10/2017, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã gửi tới các cơ quan báo chí theo đó, Bitcoin được cho là không phải là phương thức thanh khoản mang tính hợp pháp tại Việt Nam. Như vậy, về phía cơ quan nhà nước thì việc phát hành, cung ứng, về phía người tham gia kinh doanh thì việc sử dụng Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác làm phương thức thanh khoản là hoàn toàn không được pháp luật Việt Nam công.

Quan điểm của Chính phủ về tiền ảo

Trước tình hình thực tế như vậy, Quyết định số 1255/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành và phê duyệt Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo. Theo đó, trước những diễn biến khó lường và những ảnh hưởng tiêu cực của các hoạt động liên quan đến tiền ảo tại Việt Nam, ngày 21/8/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành về:

Thứ nhất, hiện nay, chính sách pháp luật cần phải nghiên cứu nhằm thực hiện việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản nhằm giải quyết những vấn đề đang diễn ra trên thực tiễn tất yếu đang tồn tại và sẽ diễn ra;

Thứ hai, cần nghiên cứu khung chính sách pháp lý nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trong và ngoài nước tại Việt Nam; theo đó nhằm hạn chế, ngăn chặn và kiểm soát có hiệu quả các rủi ro, lạm dụng liên quan; cần có các chính sách pháp lý cụ thể hóa các chế định về quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015 trong lĩnh vực tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo;

Thứ ba, trên tinh thần đó, các cơ quan nhà nước chuyên môn cần thực hiện việc nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo để xây dựng bộ nhận diện, xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý liên quan theo nguyên tắc bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, minh bạch, ổn định và có thể dự báo trước của hệ thống pháp luật, phù hợp thông lệ quốc tế.

Như vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý này nhằm thực hiện các mục tiêu như:

Một là, cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc nghiên cứu, nhận diện đầy đủ về mặt lý luận và thực tiễn chính xác bản chất của tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo theo kinh nghiệm nước ngoài và thực tiễn Việt Nam; theo suốt mối quan hệ với tài sản thực, tiền thực; vai trò của tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo và tác động của tải sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo tới pháp luật;

Trên cơ sở thực tế và khung chính sách pháp luật chung, cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc rà soát, đánh giá thực trạng khung pháp lý về tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo của Việt Nam; nghiên cứu kĩ về kinh nghiệm điều chỉnh của nước ngoài và tác động tới hệ thống pháp luật liên quan của Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất các nhiệm vụ, công việc cụ thể và những định hướng nhằm xây dựng, hoàn thiện khung chính sách về tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo thực hiện việc bảo đảm tương ứng với các rủi ro liên quan để kiểm soát, giảm các rủi ro này nhưng không được ảnh hưởng đến sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư chân chính.

Có thể thấy rằng, Quyết định này là nền móng quan trọng trong việc nghiên cứu và ban hành các quy định liên quan đến tiền ào. Có thể thấy rõ sự quan tâm, chỉ đạo đúng hướng của Đảng và Nhà nước trước sự cần thiết, cấp bách của việc ban hành khung pháp lý để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tiền ảo tại Việt Nam.

Về phía Thủ tướng Chính phủ

Trên cơ sở cần thiết phải thể chế hóa các quy định liên quan đến tài sản ảo, tiền ảo, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg về tăng cường quản lý các hoạt động liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác. Theo đó, Chỉ thị nêu rõ những rủi ro tiềm ẩn cũng như nhưng hâu quả của các hoạt động kinh doanh, giao dịch tiền ảo trong thực tế như nguy cơ về rửa tiền, tài trợ khủng bố, trốn thuế… hoạt động đầu cơ, mua bán, phát hành tiền ảo, hoạt động ẩn danh tiền ảo để bán hàng đa cấp diễn ra phức tạp ảnh hưởng đến an ninh xã hội, gây bất lợi cho nhà đầu tư….

Theo đó, các Bộ, ngành phải thực hiện việc quản lý liên quan đến tiền ảo nhằm hạn chế rủi ro cho cá nhân, tổ chức, nhà đầu tư và cả xã hội, ngăn chặn các hành vi vi phạm…

Các tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không được thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền ảo trái pháp luật, đồng thời phải tăng cường rà soát, báo cáo kịp thời các giao dịch đáng ngờ liên quan tới tiền ảo theo quy định của pháp luật, phát hiện, xử lý các hành vi sử dụng tiền ảo làm tiền tệ, phương tiện thanh toán trái pháp luật.

Không được thực hiện các hoạt động phát hành, giao dịch và môi giới giao dịch liên quan tới tiền ảo trái pháp luật, tuân thủ các quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền.

Hạn chế nhập khẩu, quản lý thiết bị, máy móc cho mục đích đào tiền ảo.

Bên cạnh đó, cần phải tăng cường thực hiện việc điều tra, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, kinh doanh đa cấp, lừa đảo trong môi trường ảo….

Thực hiện tốt việc xử lý kịp thời các hành vi sử dụng tiền ảo làm phương tiện thanh toán trái pháp luật trên các website, ứng dụng thương mại điện tử.

Thực hiện tốt việc thông tin, tuyên truyền về những nguy cơ, rủi ro và hậu quả của việc đầu tư, kinh doanh Bitcoin của người dân mà thiếu hiểu biết về tài chính...

Đối với Thống đốc ngân hàng Nhà nước

Bên cạnh các quy định nêu trên, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN về các biện pháp tăng cường kiểm soát các giao dịch, hoạt động liên quan đến tiền ảo nhằm thực hiện Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 11/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác, theo đó, Chỉ thị đưa ra yêu cầu các đơn vị có liên quan nghiêm túc thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường kiểm soát, xử lý các giao dịch liên quan tới tiền ảo, cụ thể như:

Đối với các tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cần tuân thủ những vấn đề sau:

Tổ chức tín dụng không được cung ứng dịch vụ thanh khoản, thực hiện giao dịch thẻ, cấp tín dụng qua thẻ.. thực hiện giao dịch thanh toán, chuyển tiền qua biên giới mà các giao dịch này có tính chất liên quan tới giao dịch tiền ảo cho khách hàng vì có thể phát sinh những rủi ro về rửa tiền, tài trợ khủng bố, trốn thuế, gian lận,..

Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng cần thực hiện việc tăng cường rà soát, báo cáo kịp thời mọi giao dịch nếu thấy có dấu hiệu có liên quan tới tiền ảo; kịp thời thực hiện việc rà soát các tổ chức, cá nhân có giao dịch mua bán, trao đổi tiền ảo, các tổ chức có hoạt động xử lý giao dịch mua bán, trao đổi tiền ảo và thực hiện việc xử lý bảo đảm tuân thủ quy định pháp luật về phòng chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và quản lý ngoại hối.

 


[1]https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/sm/tebc/ttvhdnhtt/ttvhdnhtt_chitiet?leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName-CNTHWEBAP0116211755883&rightWidth=0%25&centerWidth=80%25&_afrLoop-4162941972972000#%40%3F_afrLoop%3D4162941972972000%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DCNTHWEBAP0116211755883%261eftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse% 26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D35apalpk7 9 (truy cập ngày 30/5/2018).