In trang này
Thứ tư, 09 Tháng 4 2025 01:56

Căn cứ pháp lý về quyền tham chính của phụ nữ tại Việt Nam

Bình đẳng giới trong chính trị không chỉ là một vấn đề của quyền con người mà còn là một yếu tố quan trọng để xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và phát triển bền vững, cụ thể là:

- Thực hiện quyền con người – quyền bình đẳng, công bằng về sự đại diện trong chính trị của mỗi giới, đảm bảo tiếng nói và quan điểm của phụ nữ được lắng nghe và đại diện đầy đủ trong quá trình ra quyết định chính trị.

- Gia tăng chất lượng của các chính sách: các nhu cầu, trải nghiệm, mong muốn… của cả hai giới sẽ được phản ánh đầy đủ trong các chính sách, góp phần xây dựng các chính sách toàn diện và hiệu quả.

- Đóng góp cho sự phát triển bền vững của quốc gia

- Góp phần thúc đẩy bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

          I. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề phụ nữ tham chính

Thực hiện nam nữ bình quyền cũng như bình đẳng giới (BĐG) không chỉ là một trong những mục tiêu của Đảng, Nhà nước để đảm bảo quyền con người, mà ngày càng được quan tâm như là một phương thức quan trọng để hướng tới sự phát triển bền vững, nhằm đạt được sự bình đẳng, công bằng, tiến bộ xã hội và thịnh vượng, không để ai bị bỏ lại phía sau. Bình đẳng giới là một trọng tâm phát triển ở Việt Nam trong nhiều năm qua. Quan điểm “Nam, nữ bình quyền” luôn được quán triệt trong các văn kiện, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng qua các thời kỳ. Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16-5-1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về “Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới” đã nhấn mạnh tới việc nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là yêu cầu quan trọng để thật sự thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ; là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ. Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27/4/2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh: “Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý có tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ, nguồn cán bộ nữ hẫng hụt, ở một số lĩnh vực, tỷ lệ cán bộ nữ sụt giảm”, trên cơ sở đó đã đề ra quan điểm: “Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam”. Nghị quyết cũng xác định một số chỉ tiêu liên quan đến công tác cán bộ nữ:

- Bảo đảm tỷ lệ nữ tham gia gia các khóa đào tạo tại các trường lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước từ 30% trở lên

- Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%.

- Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Ðảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới.

        Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW, ngày 20/1/2018 của Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 21-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới đã xác định: (1) Nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò, vị trí của phụ nữ, về công tác phụ nữ và bình đẳng giới có chuyển biến tích cực; (2) Hệ thống luật pháp, chính sách đối với phụ nữ và bình đẳng giới từng bước được hoàn thiện, có nhiều quy định tiến bộ; (3) Đội ngũ nữ trí thức, nữ khoa học được nâng lên cả về số lượng, chất lượng, đóng góp quan trọng trong hoạch định chính sách, ứng dụng thực tiễn (Từ 2006 đến 2016, tỷ lệ nữ thạc sỹ tăng từ 30,5% lên 43%; nữ tiến sỹ tăng từ 17% lên 21%; nữ giáo sư từ 5,1% lên 8,4%; nữ phó giáo sư từ 11,7% lên 26,3%). Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, ngày càng khẳng định vai trò, khả năng trong tham chính. Tuy nhiên, nhiều chỉ tiêu của Nghị quyết số 11- NQ/TW về công tác cán bộ nữ chưa đạt (tỷ lệ nữ cấp uỷ cấp TW 10%, cấp tỉnh 13,4%, cấp huyện 17,2%, cấp xã 21,5% trong khi chỉ tiêu 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội 26,7%, HĐND cấp tỉnh 26,6%, cấp huyện 27,5%, cấp xã 26,6%, chỉ tiêu 35-40%).

Chỉ thị 21 – CT/TW đề ra các nhiệm vụ cụ thể là:

        - Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, tiềm năng to lớn của phụ nữ, công tác phụ nữ, bình đẳng giới.

        - Hoàn thiện luật pháp, chính sách, nhất là bình đẳng giới.

- Xây dựng người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện, chú trọng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao.

- Trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt chỉ tiêu Nghị quyết số 11-NQ/TW

- Phát huy vai trò của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ xác định mục tiêu đến năm 2030: “Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp. Tỉ lệ nữ cấp uỷ viên các cấp đạt từ 20-25%; tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%.” 

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13 khẳng định mục tiêu: "Xây dựng phụ nữ Việt Nam thời đại mới; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới”.

Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng quy định đối với cơ cấu cấp uỷ, uỷ viên thường vụ “Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ”.

II. Căn cứ pháp lý về quyền tham chính đối với phụ nữ

Hiến pháp 2013, điều 26 đã khẳng định về quyền quyền bình của nam, nữ về mọi mặt:

         “1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.

2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.

3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”

Luật Bình đẳng giới 2006 quy định bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, Điều 11. Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, cụ thể là:

- Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội.

- Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

- Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.

- Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:

+ Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;

+ Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: đảm bảo có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp là phụ nữ (khoản 3 điều 8 và khoản 1, khoản 2 điều 9). Quy định này là khung pháp lý và là cơ chế hiệu quả để các cơ quan liên quan phải thực hiện nhằm đảm bảo sự đại diện của phụ nữ trong quá trình chuẩn bị danh sách nhân sự bầu vào Quốc hội và HĐND các cấp. Đây là một biện pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan dân cử.

Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 3/3/2021 ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030 với mục tiêu tổng quát: Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Trong lĩnh vực chính trị, Nghị quyết đề ra chỉ tiêu: “Đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ”, trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo xác định chỉ tiêu: Tỷ lệ nữ thạc sĩ trong tổng số người có trình độ thạc sĩ đạt không dưới 50% từ năm 2025 trở đi. Tỷ lệ nữ tiến sĩ trong tổng số người có trình độ tiến sĩ đạt 30% vào năm 2025 và 35% vào năm 2030.

Bộ Luật Lao động năm 2019 quy định tuổi nghỉ hưu của người lao động, theo đó tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 55 tuổi 04 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 04 tháng đối với lao động nữ.

Nghị định 83/2022/NĐ-CP và Nghị định số 99/2024/NĐ-CP quy định cụ thể, đồng bộ về những trường hợp nghỉ hưu ở độ tuổi cao hơn; đối với cán bộ giữ các chức danh thứ trưởng và tương đương; quy định nguyên tắc: cơ quan có thẩm quyền quyết định nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với cán bộ, công chức theo quy định tại Nghị định nhưng phải đảm bảo tuổi nghỉ hưu không vượt quá 65 tuổi đối với nam và 60 tuổi đối với nữ.

Quyết định số 2282/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình “Tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo và quản lý ở cấp hoạch định chính sách” (theo), trong đó đề ra mục tiêu: “Đảm bảo sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo và quản lý ở các cấp hoạch định chính sách nhằm phát huy tiềm năng, sức sáng tạo của phụ nữ, hướng tới thực hiện cam kết đạt mục tiêu phát triển bền vững về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ” với các chỉ tiêu cụ thể: tỷ lệ nữ lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan quản lý Nhà nước, chính quyền địa phương các cấp đạt 60% vào năm 2025 và 75% vào năm 2030; tỷ lệ cán bộ nữ trong diện quy hoạch các chức danh quản lý, lãnh đạo các cấp đạt ít nhất 40% vào năm 2025 và đạt 50% vào năm 2030; tỷ lệ cán bộ nữ trong diện quy hoạch các chức danh quản lý, lãnh đạo các cấp được đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực đạt 75% vào năm 2025 và đạt 90% vào năm 2030.

Chương trình được ban hành là căn cứ pháp lý quan trọng để cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm đưa phụ nữ vào quy hoạch các vị trí lãnh đạo, quản lý; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ và bố trí cán bộ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành, các tỉnh, thành phố đã xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình nhằm đạt các mục tiêu đề ra.

Những văn bản pháp lý quan trọng nêu trên là cơ sở quan trọng để thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực chính trị, thể hiện rõ những cam kết quốc tế của Việt Nam, hướng tới thu hẹp khoảng cách giới.