Thứ năm, 24 Tháng 4 2025 02:36

Phát triển văn hóa và những thành tựu trong kỷ nguyên mới (Phần 1)

Về công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển văn hóa

Đảng và Nhà nước thường xuyên nắm bắt dư luận xã hội để có những giải pháp định hướng đúng đắn, kịp thời, phát huy mặt tích cực, mặt đồng thuận, hạn chế những tác động tiêu cực, trái chiều. Tiến hành công tác tuyên truyền và cách thức tuyên truyền văn hóa thông qua các tác phẩm điện ảnh, sân khấu, biểu diễn nghệ thuật, dân ca, ca vũ, báo chí, xuất bản phẩm, tuyên truyền cổ động, triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh... nhằm lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội. Chủ động nắm bắt tư tưởng, tâm trạng, thái độ của đội ngũ cán bộ, nhân viên, văn nghệ sĩ trước những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm của đất nước hay của chính lĩnh vực văn hóa, văn nghệ; hạn chế mặt bất đồng, tiêu cực, tăng tính đồng thuận, đồng tình, tích cực.

Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa cho mọi đối tượng sáng tác và thụ hưởng dưới các hình thức đa dạng từ hội nghị, tập huấn, bồi dưỡng… đến các hình thức sản phẩm văn hóa, nghệ thuật như tiểu phẩm sân khấu, phim ngắn, âm nhạc…

Các cơ quan được Đảng, Nhà nước giao làm công tác chỉ đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ[1] có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời có những biện pháp chấn chỉnh, định hướng cho đội ngũ văn nghệ sĩ, các nhà khoa học nghiên cứu, sáng tác những tác phẩm phê phán các biểu hiện sai lệch chuẩn mực đạo đức và thông tin kịp thời về những vấn đề phức tạp để đất nước ngày càng phát triển an toàn, bền vững.

Về xây dựng và hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở

Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao các cấp từng bước được hoàn thiện, góp phần triển khai có hiệu quả công tác tuyên truyền, phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước. Số lượng thiết chế văn hóa, thể thao các cấp được đầu tư xây dựng chưa đồng đều, tài một số địa phương đạt và vượt mục tiêu đề ra; cơ chế, chính sách về đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực cho các thiết chế đã từng bước được quan tâm; kinh phí hoạt động từng bước được nâng lên; nội dung, phương thức tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao có nhiều thay đổi phù hợp với điều kiện thực tế, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tính đến hết tháng 3 năm 2023, cả nước có 66 thiết chế văn hoá cấp tỉnh là trung tâm văn hóa[2]; 689/705 quận, huyện có Trung, tâm Văn hoá - Thể thao hoặc Nhà Văn hoá, đạt tỷ lệ khoảng 97,7%, trong đó có 471 đạt chuẩn (tỷ lệ 66,8%); 8.207/10.598 xã, phường, thị trấn có Trung tâm Văn hoá - Thể thao, đạt tỷ lệ 77,4% trong đó có 5.625 đạt chuẩn (tỷ lệ 53%); 69.070 trong tổng số 90.508 làng, thôn, bản, ấp… có Nhà Văn hoá, đạt tỷ lệ khoảng 76,3% trong đó có 44.836 đạt chuẩn (tỷ lệ 49,5%).

Về lĩnh vực thư viện và phát triển văn hóa đọc

Đọc trực tuyến thông qua sách điện tử, tài nguyên số đang là xu thế đọc của người trẻ tuổi, nhưng việc đọc sách in truyền thống vẫn tồn tại song hành cùng sách điện tử, đang làm đa dạng thêm văn hóa đọc và phương tiện tiếp cận của người sử dụng. Thiết chế thư viện đã và đang xây dựng theo hướng thư viện truyền thống kết hợp thư viện điện tử/ thư viện số phục vụ sự lựa chọn khác nhau của mỗi đối tượng đọc, đồng thời, thực hiện tốt nhiệm vụ là nơi lưu giữ, phổ biến các giá trị tư liệu đáp ứng các nhu cầu đọc, học tập, trao đổi, sáng tạo, giải trí của các tầng lớp nhân dân.

Cả nước đã xây dựng được mạng lưới thư viện công cộng[3], thư viện chuyên ngành, thư viện cơ sở giáo dục, thư viện lực lượng vũ trang từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động gắn phát triển văn hóa đọc với học đường, phục vụ các đối tượng đặc thù khác nhau... Các chỉ số về hoạt động thư viện đã có sự tăng trưởng so với giai đoạn trước. Quá trình chuyển đổi số ngành thư viện đang được đẩy mạnh để đáp ứng yêu cầu phát triển ngành và nhu cầu của bạn đọc.

Về công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hóa

Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Công tác xã hội hoá hoạt động bảo tồn di tích cũng đã huy động được nhiều nguồn lực xã hội. Tính đến năm 2022, cả nước có 32 di sản văn hóa được UNESCO ghi danh, trong đó có 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; 15 di sản văn hóa phi vật thể[4]; 3 di sản tư liệu thế giới, 6 di sản tư liệu khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Có hơn 40 nghìn di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được kiểm kê. Trong đó, số di tích xếp hạng có 123 di tích quốc gia đặc biệt; 3.602 di tích quốc gia; hơn 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố; 238 bảo vật quốc gia,… Trên cả nước, có 194 bảo tàng, trong đó có 128 bảo tàng công lập và 66 bảo tàng ngoài công lập đang lưu giữ hơn 3 triệu hiện vật, phản ánh toàn diện về đất nước và con người Việt Nam trong tiến trình lịch sử. Các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và các bảo tàng là những sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật đồng thời là môi trường thực hành văn hóa, tham quan, học tập của nhân dân; là điểm đến hấp dẫn của khách du lịch quốc tế. Thời gian qua, hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa tại một số các di tích và bảo tàng đã có những kết quả đáng kể, vừa giữ gìn được các giá trị văn hóa truyền thống, vừa góp phần phát triển du lịch, kinh tế - xã hội địa phương.

Về mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm

Đến năm 2022, cả nước có một số bảo tàng chuyên ngành về mỹ thuật như Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng, Bảo tàng Mỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế. Bên cạnh hệ thống cơ sở bảo tàng, nhà trưng bày, có nhiều bộ sưu tập tư nhân, đặc biệt là ở khu vực thành phố Hà Nội, Huế và Hồ Chí Minh. Các bộ sưu tập tư nhân về mỹ thuật bao gồm cả lĩnh vực mỹ thuật cổ truyền và mỹ thuật hiện đại. Nhiều tỉnh, thành phố đã được đầu tư xây dựng và nâng cấp quy mô các nhà triển lãm văn học nghệ thuật như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh.

Về công trình mỹ thuật tượng đài, tranh hoành tráng, so với giai đoạn trước đã có sự phát triển rõ rệt. Nếu như trước đây, tượng đài ở các tỉnh, thành phố trong nước chủ yếu được xây dựng bằng chất liệu bê tông có kích thước nhỏ; ít nhân vật; thiếu tính hoành tráng, bền vững thì tượng đài được sáng tác trong khoảng 15 năm trở lại đây phần lớn đã được sử dụng bằng chất liệu bền vững và có quy mô khá lớn. Cả nước đã xây dựng được hàng trăm công trình tượng đài, tranh hoành tráng[5]. Các công trình tượng đài, tranh hoành tráng đã xây dựng chủ yếu là tượng kỷ niệm chiến thắng, tưởng niệm chiến tranh, tượng đài danh nhân, lãnh tụ; có giá trị về nội dung tư tưởng, ca ngợi truyền thống cách mạng.

Bên cạnh đó, nhiều hoạt động triển lãm, thi, liên hoan, giao lưu mỹ thuật, nhiếp ảnh với các quy mô, hình thức khác nhau do Nhà nước, các tổ chức, cá nhân tổ chức đã tạo nên một diện mạo phong phú, đa dạng và phong trào sôi nổi trong hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh; góp phần làm phong phú đời sống tinh thần và nâng cao mức hưởng thụ nghệ thuật cho nhân dân.


[1] Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng lý luận Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và ở địa phương là Ban tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy, thị ủy...

[2] Gồm: Trung tâm Văn hóa, Trung tâm Văn hóa - Nghệ thuật, Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh, Trung tâm Thông tin Triển lãm...

[3] Có 54 thư viện tỉnh đã được đầu tư xây dựng trụ sở riêng

[4] Trong đó, có 13 di sản văn hóa thuộc danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; 2 di sản văn hoá nằm trong danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.

[5] Những địa phương có số lượng tượng đài, tranh hoành tráng xây dựng, nâng cấp nhiều trong giai đoạn vừa qua là thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, các tỉnh: Phú Thọ, Nam Định, Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định, Long An, Bình Phước, Đồng Nai, Tiền Giang, An Giang, Bình Dương, Gia Lai, Kon Tum, Bến Tre…

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành