Chủ nhật, 25 Tháng 5 2025 02:49

Sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị tại Việt Nam hiện nay

Phụ nữ tham gia cấp các cấp  

Phụ nữ tham gia Ban chấp hành Trung ương lần đầu tiên là từ Đại hội VIII của Đảng. Con số này có xu hướng tăng liên tiếp trong 3 khóa X, XI, XII với tỷ lệ tương ứng là 7,5%, 8,13% và 10%. Người đứng đầu nhiệm kỳ Khóa XIII có 19 Ủy viên Trung Quốc là nữ (18 Ủy viên chính thức và 01 Ủy viên dự luật), sử dụng 9,5%. Vào thời điểm tháng 10/2024, có 1 Ủy viên Bộ Chính trị là nữ (1/15, sử dụng 6,7%).

Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ tham gia cấm hành hành tỉnh, thành phố qua các nhiệm kỳ gần đây tăng từ 11,23% (Nhiệm kỳ 2000 - 2005) đến 15,7% (nhiệm kỳ 2020-2025). Nhiệm vụ kỳ 2020-2025, Ủy viên thường vụ là nữ sử dụng 10,97% (nhiệm kỳ 2015-2020 là 7,85%), Bí thư và Phó bí thư sử dụng tỷ lệ tương ứng là 9,5% (nhiệm kỳ 2015-2020 là 6,3%) và 10,97% (nhiệm kỳ 2015-2020 là 4,14%).

Ở cấp huyện, tỷ lệ nữ tham gia cấm hành vi bộ huyện và tương đương năm nhiệm kỳ gần đây đều tăng, từ 11,68% (nhiệm kỳ 2000-2005) lên 17,3% (nhiệm kỳ 2020-2025). Ở cấp xã, tỷ lệ nữ tham gia cấp cơ sở hạ tầng gần đây tăng nhanh, từ 11,88% (nhiệm kỳ 2000-2005) lên 20,8% (nhiệm kỳ 2020-2025).

Phụ nữ tham gia Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp

Số lượng nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam tăng lên qua từng nhiệm kỳ Quốc hội. Trong Quốc hội khóa I (1946 – 1960), số đại biểu nữ chỉ sử dụng 2,5% với 10 đại biểu, đến Quốc hội khóa XIV (2016 – 2021) đã có 133 đại biểu quốc hội là nữ, sử dụng 26,8% và đây cũng là nhiệm vụ đầu tiên có nữ Chủ tịch Quốc hội (bà Nguyễn Thị Kim Ngân). Quốc hội khóa XV, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội là 30,26% so với 151 nữ đại biểu, lần đầu tiên vượt qua 30% kể từ khi đất nước thực hiện cuộc đổi mới. Trong số 151 đại biểu nữ có 44 đại biểu nữ là người dân tộc thiểu số (chiếm 29,14% tổng số đại biểu nữ), 27 nữ đại biểu trẻ (dưới 40 tuổi, đại biểu trẻ tuổi nhất là đại biểu nữ sinh năm 1997); 100% đại biểu nữ có trình độ đại học trở lên, trong đó 78,8% số nữ đại biểu có trình độ đại học; 18 nữ đại biểu là lãnh đạo Hội đồng Dân tộc, các quận của Quốc hội (chiếm 40% tổng số lãnh đạo các cơ quan này). Có 12/63 Tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt từ 50% đến 66,7%.

Theo dữ liệu toàn cầu về Nghị viện quốc gia Đại hội đồng Liên minh Quốc hội thế giới (IPU) năm 2023, Quốc hội Việt Nam xếp hạng 64 về tỷ lệ nữ đại biểu (chiếm 30,26%), cao hơn tỷ lệ nữ đại biểu quốc hội châu Á (21%) và thế giới (26,7%), đứng đầu trong các quốc gia thuộc Hội đồng liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPA).

Tỷ lệ (%) nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cũng tăng dần qua các nhiệm kỳ, cụ thể là:

NK 2011 – 2016 NK 2016 – 2021 NK 2021 – 2026
Cấp tỉnh 25,7 26,5 29
Cấp huyện 24,62 27,5 29,2
Cấp xã 27,71 26,59 28,98

Cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý các cấp

Theo thống kê, từ khóa IX (1992-1997) đến khóa XV (2021-2026), số lượng bộ trưởng nữ luôn được duy trì ở mức từ 1 đến 3 người (Khóa XIV và khóa XV: 3/22 Bộ trưởng, chiếm 13,64%).

Theo số liệu báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (tháng đến 31/12/2024:

- 14/30 các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ, đạt 46,67% (bằng năm 2023). Trong đó:

+ Tỷ lệ các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ 13/22 và không thay đổi so với 2023

+ Tỷ lệ các cơ quan thuộc chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ là 1/8 cơ quan (đạt 12,5% và bằng năm 2023)

- 48/63 chính quyền địa phương cấp tỉnh (76%) có lãnh đạo chủ chốt là nữ (tăng 2% so với năm 2023)

- 44,56% chính quyền địa phương cấp huyện có lãnh đạo chủ chốt là nữ

- 46,58% chính quyền địa phương cấp xã có lãnh đạo chủ chốt là nữ

Từ kết quả thực tiễn, có thể rút ra một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, phụ nữ tham gia cấp ủy các cấp đã có sự chuyển biến, một số mục tiêu về công tác cán bộ nữ chưa đạt được, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra. Còn nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị tỷ lệ cán bộ nữ chưa đạt yêu cầu; càng lên cấp cao thì tỷ lệ nữ cấp ủy càng có xu hướng giảm.

Thứ hai, mặc dù tỷ lệ nữ Quốc hội ở Việt Nam cao hơn so với tỷ lệ chung của thế giới và của châu Á nhưng đang có chiều hướng giảm dần khoảng cách và bị tụt hạng. Tại thời điểm công bố kết quả bầu cử (tháng 6/2021), Việt Nam đứng thứ 53 về tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội trong số 193 quốc gia theo bảng xếp hạng của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU); Năm 2022, Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam xếp thứ 59/180 quốc gia. Đến tháng 6/2024, Việt Nam đứng thứ 65/193 quốc gia[1].

Bên cạnh đó, vẫn còn có địa phương không có đại biểu nữ: Quốc hội khóa XIV có 3 địa phương không có nữ đại biểu Quốc hội: Quảng Nam, Tây Ninh, Thừa Thiên – Huế; Quốc hội khóa XV có 2 địa phương không có nữ đại biểu Quốc hội: Tp.Hải Phòng, Cà Mau. Có địa phương không tuân thủ tỷ lệ nữ trong danh sách ứng cử theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân (ví dụ như Trà Vinh, tỷ lệ này chỉ đạt 33,73%). Một số địa phương có tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân còn thấp, đối với cấp tỉnh: tỉnh Thừa Thiên – Huế đạt 13,75%, tỉnh Long An (15%), tỉnh An Giang (18,03%); tỉnh Vĩnh Long đạt tỷ lệ nữ Hội đồng nhân dân cấp huyện là 19,31% và cấp xã là 19,54%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình chung của cả nước.

Phân tích số liệu về đại biểu Quốc hội đầu khóa XV cho thấy: số lượng đại biểu quốc hội chuyên nghiệp làm việc tại Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội còn có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ (92 đại biểu chuyên nghiệp là nam giới, 36 đại biểu là phụ nữ). Trở thành thành viên của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội phản ánh tỷ lệ cân bằng cân bằng giữa đại biểu nam và nữ ở các Ủy ban Xã hội, Ủy ban văn hóa, giáo dục, Hội đồng dân tộc; Thấp nhất là số lượng thành viên nữ của Quận ban Quốc phòng và An ninh (7 nữ đại biểu), tại các Ủy ban Kinh tế, Tài chính – Ngân sách, Tư pháp và Pháp luật, tỷ lệ thành viên ủy quyền là nữ đều thấp hơn 30%.

Thứ ba, về phụ nữ tham gia quản lý nhà nước, t heo Diễn đàn Kinh tế thế giới, c vui số khoảng giới (xem xét trên 4 khía cạnh chính: kinh tế, giáo dục, y tế và chính trị) : năm 2024 của Việt Nam xếp thứ 72/ 146 quốc gia gia tham gia xếp hạng (WEF, 202 4 ) - hạng tương đương với năm 2023, tăng 11 bậc so với năm 2022 và tăng 15 bậc so với năm 2021 (xếp thứ 87/146 quốc gia). Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ ở vị trí bộ trưởng có hạng thấp hơn – xếp hạng thứ 114/146 quốc gia (năm 2023). Cuối năm 2024, Chính phủ mới chỉ đạt được 1 trong 4 chỉ tiêu liên quan đến phụ nữ tham chính trong chiến lược quốc gia về bình đẳng giai đoạn 2021 -2030 - đó là chỉ tiêu chính quyền cấp Tỉnh có đạo chủ chốt là nữ.

 


[1] https://data.ipu.org/women-ranking/?date_year=2024&date_month=06 (bảng xếp hạng tháng 6 của IPU)

Sửa đổi lần cuối Thứ hai, 14 Tháng 7 2025 01:56

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành