Thứ năm, 20 Tháng 11 2014 00:00

Độc lập tư pháp và các yếu tố bảo đảm

1. Xu hướng quốc tế về độc lập tư pháp:

Tư pháp được hiểu ở phương Tây là xét xử - đồng nghĩa với hoạt động của tòa án để tìm ra công lý, công bằng cho tất cả mọi người. Tư pháp độc lập khi nó được xem xét như là một cành quyền lực, nghiêng ngửa với hai ngành lập pháp và hành pháp. Trong nhà nước pháp quyền với cơ chế phân quyền: Quốc hội có quyền lập pháp - làm luật, Chính phủ có quyền thi hành pháp luật - hành pháp, Tòa án có quyền tư pháp - xét xử. Quốc hội cũng như Chính phủ phải hoạt động trong phạm vi khuôn khổ của Hiến pháp. Vấn đề đặt ra cần phải có sự kiểm tra, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp của các cơ quan này. Trong việc kiểm soát tính hợp hiến của hành pháp ban đầu người ta giao cho lập pháp, song chẳng bao lâu sau đó người ta đã phát hiện ra rằng ngành tư pháp có thể thực hiện nhiệm vụ này tốt hơn nhiều.... Ngày nay, nhà nước pháp quyền không còn được đặc trưng bởi chức năng lập pháp như trước, mà bởi sự phát triển các thủ tục pháp lý nhằm bảo vệ pháp luật, trước sự tùy tiện của lập pháp và hành pháp.

Việc tòa án có vai trò độc lập với các ngành quyền lực còn lại là điều quan trọng nhất của một nhà nước dân chủ. Cho dù những mối quan hệ của ngành tư pháp như thế nào với lập pháp và hành pháp, thì hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới người ta đều dựa vào tư pháp để giải thích pháp luật và để buộc hai ngành kia phải chịu trách nhiệm trước pháp luật cũng như phải tuân thủ các điều khoản của Hiến pháp. Nói cách khác, sự hiện diện của tư pháp độc lập được coi như là bằng chứng của một nền dân chủ. Ý nghĩa của nguyên tắc này nằm ở mục đích để cho tòa án có khả năng phán xét công bằng mọi tranh chấp trong xã hội. Hiện nay, không ai có thể nghi ngờ về thực tế: một nền dân chủ không thể có cơ sở tồn tại nếu hệ thống tư pháp đối xử không công bằng với các chủ thể trong xã hội; một quốc gia khó có thể ổn định và phát triển thịnh vượng nếu không có một hệ thống cơ quan tài phán độc lập với hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp.

Tính độc lập của toà án phải được nhà nước bảo đảm và ghi nhận chính thức trong Hiến pháp hay pháp luật quốc gia. Không chỉ như vậy, nhà nước phải bảo đảm rằng tất cả các cơ quan của mình có nhiệm vụ tôn trọng và tuân thủ tính độc lập của toà án.

Tính độc lập của toà án thể hiện ở việc tòa án phải có quyền quyết định các vụ việc một cách vô tư, không thiên vị, dựa trên bản chất của sự việc và theo luật pháp mà không chịu bất kỳ sự hạn chế, tác động hay ảnh hưởng nào không phù hợp, hoặc sự dụ dỗ, sức ép, đe doạ hay can thiệp sai trái, một cách trực tiếp hay gián tiếp, từ bất kỳ chủ thể nào, dựa trên bất kỳ lý do nào. Thêm vào đó, tòa án phải có quyền tài phán với mọi vấn đề thuộc thẩm quyền xét xử và có quyền quyết định các vụ việc được trình lên có thuộc chức năng xem xét của toà theo như luật pháp quy định hay không.

Nguyên tắc độc lập của tòa án cũng đòi hỏi không một chủ thể nào được can thiệp một cách vô cớ hay không thoả đáng vào quá trình xét xử, cũng như được xét lại các phán quyết của toà án. Chỉ có các tòa án cấp trên mới có quyền xét lại các phán quyết của tòa án cấp dưới theo trình tự tố tụng quy định trong pháp luật. Thêm vào đó, nguyên tắc này gắn với quyền của mọi người được xét xử bởi các toà án thông thường, với những thủ tục pháp lý đã được ấn định. Điều đó có nghĩa là việc tùy tiện lập ra một toà án đặc biệt nào đó để thay thế cho các tòa án thông thường được lập ra theo pháp luật sẽ bị coi là vi phạm nguyên tắc độc lập của tòa án.

Một điểm nữa là nguyên tắc độc lập của toà án đòi hỏi quyền của các bên tham gia tố tụng đều phải được tôn trọng, bất kể đó là bên buộc tội hay gỡ tội. Điều này liên quan đến phương thức tiến hành tố tụng mà theo đó, để bảo đảm tính độc lập của tòa án, tố tụng tại tòa phải là tố tụng tranh tụng chứ không phải tố tụng buộc tội. Tòa án chỉ đóng vai trò là trọng tài xem xét và phán quyết dựa trên việc đánh giá quan điểm của các bên buộc tội và gỡ tội chứ không tham gia vào bất cứ bên nào.

Nhìn chung, nguyên tắc độc lập xét xử của toà án đòi hỏi các quốc gia  phải cung cấp đầy đủ các nguồn lực để ngành toà án có thể thực hiện tốt những chức năng của mình mà không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan nhà nước nào khác. Điều này xuất phát từ thực tế là nếu tòa án phụ thuộc vào nguồn nhân lực hay vật lực của một cơ quan nhà nước khác, tòa án có thể sẽ bị cơ quan nhà nước đó chi phối và mất đi tính độc lập của mình.

2. Các yếu tố đảm bảo cho độc lập tư pháp ở nước ta:

Nhận thức đúng đắn về tòa án:

Hiện nhiều người, trong đó không ít những người giữ các cương vị lãnh đạo ở cả trung ương, địa phương và chính cán bộ tòa án cũng quan niệm rằng Tòa án chỉ là một cơ quan ngang bộ, thậm chí chỉ ngang với một bộ bình thường chứ không thể ngang Bộ Quốc phòng hay Bộ Công an được. Việc lầm tưởng này còn có lý do nữa là Nhà nước quy định các chức danh trong hệ thống tòa án chỉ tương đương với các chức danh của một bộ. Trừ chánh án Tòa án nhân dân Tối cao được xếp ngang với phó thủ tướng, còn từ phó chánh án trở xuống thì hàm cấp chỉ ngang với thứ trưởng, vụ trưởng...; riêng chánh tòa các tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân Tối cao được hưởng phụ cấp trách nhiệm tương đương với phó tổng cục trưởng như của các bộ nhưng chẳng ai nói ông chánh tòa là phó tổng cục trưởng cả mà đều đưa vào diện cấp vụ.

Khi bàn về việc nâng cao vị thế của tòa án trong hệ thống bộ máy nhà nước theo tinh thần cải cách tư pháp mà Nghị quyết 49 đề ra, đã có ý kiến đề xuất: Ở Tòa án nhân dân Tối cao cần có một ủy viên Bộ Chính trị và một ủy viên Trung ương Đảng làm phó chánh án, nếu được như vậy thì vị thế của Tòa án nhân dân Tối cao hiện nay khác lắm rồi. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ vừa qua chỉ có chánh án Tòa án nhân dân Tối cao được bố trí là bí thư trung ương. Như vậy cũng là một sự kiện từ trước đến nay chưa từng có, vị thế của Tòa án nhân dân Tối cao thời gian qua cũng không còn bị lép vế như trước nữa. Theo quy định của Hiến pháp từ năm 1946 đến nay, bao giờ tòa án cũng là cơ quan tư pháp. Hiến pháp năm 2013 còn nhấn mạnh là tòa án thực hiện quyền tư pháp. Xét về mặt tổ chức bộ máy nhà nước thì Tòa án nhân dân Tối cao ngang với Chính phủ, vì cùng là cơ quan do Quốc hội lập ra. Tuy nhiên, do chức năng nhiệm vụ chỉ là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp nên quy mô không bằng Chính phủ nhưng không vì thế mà cho rằng Tòa án nhân dân Tối cao chỉ là cơ quan ngang bộ.

Muốn nâng vị thế của Tòa án nhân dân thực sự là cơ quan thực hiện quyền tư pháp thì trước hết về nhận thức từ trung ương đến địa phương phải thay đổi. Đừng coi Tòa án nhân dân Tối cao là cơ quan ngang bộ, tòa án cấp tỉnh là cơ quan ngang sở, ban ngành nữa. Nếu cần sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn bản thì nên quy định nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao có giá trị ngang với nghị định của Chính phủ. Nếu phải ký thông tư liên tịch gì đó với Bộ Công an thì không phải là ký với Bộ Công an mà Bộ Công an chỉ ký với tư cách được Chính phủ ủy quyền và cũng chỉ đối với một số lĩnh vực nào đó, còn hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật thuộc thẩm quyền của Hội đồng Thẩm phán. Để thay đổi nhận thức về vị thế của Tòa án thì Quốc hội Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần nghiên cứu thang bậc lương, các chức danh ở Tòa án nhân dân Tối cao và tòa án các cấp sao cho tương xứng với cơ quan thực hiện quyền tư pháp đã được hiến định.

Năng lực, đạo đức và tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm:

Độc lập là điều kiện cần thiết để thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên sự độc lập của thẩm phán là độc lập để tuân theo pháp luật. Sự độc lập này đòi hỏi thẩm phán không được  pháp luật, không có bất kỳ sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không bỏ lọt bất kỳ một hành vi vi phạm pháp luật nào. Xixeron một luật sư, nhà hùng biện nổi tiếng của La mã thời cổ đại từng nói: Quan tòa, đó là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị quan tòa câm.

Tuy nhiên, duy trì tính độc lập của thẩm phán không dễ. Họ cũng là con người, có gia đình, quan hệ bạn bè, có họ hàng thân thích. Tương tự, họ không thể đứng ngoài những quan hệ quản lý hành chính, những ràng buộc, ảnh hưởng của quan chức trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội. Xuất phát từ lý đó, nhiều thẩm phán bị vật chất, quyền lực cám dỗ, bao che, ô dù cho những người vi phạm pháp luật. Tính độc lập và tuân theo pháp luật của các thẩm phán trong hoạt động xét xử bị ảnh hưởng tiêu cực.

Trong hoạt động xét xử, các thẩm phán là vị quan tòa đại diện cho cái thiện chống lại cái ác, là người cầm cân nẩy mực, đại diện cho quyền lực Nhà nước, thực hiện quyền xét xử với mục đích đem lại công bằng cho xã hội, đảm bảo sự ổn định, phát triển mang ý nghĩa xã hội to lớn. Nghề nghiệp của thẩm phán liên quan đến cái sống, cái chết của con người, liên đến việc định đoạt tài sản của cá nhân, tổ chức. Bản án, quyết định của Thẩm phán chứa đựng trách nhiệm không chỉ của cá nhân thẩm phán mà cả trách nhiệm của xã hội. Chính vậy nghề của thẩm phán vừa mang tính sáng tạo, vừa mang tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Do tính đặc thù của nghề nghiệp, muốn độc lập trong hoạt động xét xử của mình, thẩm phán cần hội tụ các phẩm chất sau:

- Thẩm phán phải có đạo đức, nhân cách trong sáng, có năng lực chuyên môn tốt được nhân dân  kính mến về đạo đức, về khả năng và sự dũng cảm trong việc bảo công lý, bảo vệ niềm tin. Điều gì sẽ xảy ra nếu thẩm phán chỉ chạy theo lợi ích cá nhân, đánh mất đạo đức nghề nghiệp. Đương nhiên, niềm tin vào công lý sẽ bị xói mòn mà xã hội chỉ còn dựa vào luật rừng.

- Thẩm phán phải là người có hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật cao hơn những người khác và luôn luôn cập nhật được những thành tựu mới của hoạt động lập pháp, của khoa học và thực tiễn pháp lý. Thẩm phán có nghiệp vụ cao tức là phải nắm vững quy định của pháp luật, có tư duy và khả năng vận dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề pháp lý đặt ra.

- Thẩm phán phải được lựa chọn từ những luật gia, luật sư ưu tú nhất và phải được đảm bảo những chế độ và điều kiện làm việc thích hợp nhất. Chế độ trách nhiệm của thẩm phán phải rõ ràng và họ phải được bảo vệ theo những trình tự thích hợp nhằm tránh những sự xâm hại về tài sản, tính mạng, danh dự và nhân phẩm do những bị cáo hay đương sự gây ra. Có như vậy, thẩm phán mới có thể yên tâm thực hiện sứ mệnh của mình.

Đảm bảo các chế độ cho Thẩm phán:

Xây dựng đội ngũ Thẩm phán có tâm và có tầm thông qua chế độ tuyển cử thẩm phán thi tuyển và thẩm phán bổ nhiệm đủ tiêu chuẩn theo yêu cầu được qui định trong luật để trở thành thẩm phán suốt đời:

- Sức khỏe và tinh thần trách nhiệm cao, có niềm tin nội tâm vững chắc.

- Phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp.

- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.

- Kinh nghiệm thực tế đã trải qua các kỳ sát hạch trong thời gian công tác trong lĩnh vực luật.

- Tiêu chuẩn hóa độ tuổi của Thẩm phán bổ nhiệm.

Nhà nước cần đảm bảo về đời sống vất chất cơ bản cho đội ngũ thẩm phán suốt đời để tăng đề kháng trước những cám dỗ vật chất; tăng cường biện pháp thưởng phạt nghiêm minh và có chế độ đãi ngộ đặc biệt cho thẩm phán tận tụy, liêm chính có công lao đóng góp cho nền tư pháp Việt Nam. Việc trả lương cho thẩm phán và các chức danh khác của tòa án nên từ ngân sách riêng, không phụ thuộc vào ngân sách địa phương. Việc khen thưởng thẩm phán, tăng lương, tăng ngạch nên thực hiện theo kênh độc lập, không theo phương pháp quản lý đặc trưng của hệ thống hành chính.

Để đảm bảo tính độc lập khi xét xử, thẩm phán được tự do theo qui định của pháp luật tham gia vào Hiệp hội Luật gia Việt Nam để hưởng các quyền lợi, củng cố bồi dưỡng nghiệp vụ của mình và có quyền thực hiện những hành vi thích hợp bảo vệ sự độc lập trong hoạt động xét xử của mình. Nghiên cứu xem xét và học hỏi kinh nghiệm cải cách tư pháp ở một số nước trên thế giới như Nhật và Hàn Quốc để xây dựng mô hình đào tạo, sử dụng và quản lý thẩm phán theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc của thẩm phán vào chính quyền địa phương, vào tòa án cấp trên.

Cần áp dụng việc bổ nhiệm thẩm phán suốt đời sau khi tổ chức thi và tuyển chọn một cách khách quan, nghiêm túc. Các cuộc thi vào ngạch thẩm phán do do hội đồng quốc gia tổ chức. Hội đồng phải gồm những thẩm phán và hội thẩm nhân dân, các luật sư giỏi, có đạo đức và có kinh nghiệm công tác. Cần có chế tài áp dụng riêng dành cho các thẩm phán theo nguyên tắc khoa học, chế độ trách nhiệm rõ ràng, thể hiện rõ nguyên tắc dân chủ và bình đẳng, đảm bảo cả chất và lượng hoạt động, về uy tín của hệ thống tư pháp trong nhà nước xã hội chủ nghĩa để ngăn cản hiện tượng tiêu cực.

Đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử cũng cần được chú trọng như một giải pháp nâng cao tính độc lập của thẩm phán.Tính độc lập của Thẩm phán trong xét xử không phải là một vấn đề mới. Tuy nhiên, để hoàn thiện các định chế đảm bảo cho nguyên tắc hiến định này được thực hiện không phải là vấn đề đã được giải quyết trọn vẹn. Cho đến thời điểm hiện nay đây vẫn là vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng...

Sửa đổi lần cuối Thứ năm, 20 Tháng 11 2014 08:09

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành