Thứ hai, 24 Tháng 11 2014 03:08

Cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

1. Bản chất của quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền:

Nhận thức cho đúng, cho sâu sắc về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền không hề là vấn đề giản đơn. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, quan niệm một cách xác quyết rằng quyền lực nhà nước bao gồm 3 thứ quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp lần đầu tiên được xuất hiện trong tác phẩm Tinh thần pháp luật của Montesquieu xuất bản lần đầu vào năm 1748. Tại quyển XI của cuốn sách nổi tiếng này, Montesquieu đã giải thích quyền lập pháp là quyền làm ra luật,…sửa đổi hay hủy bỏ luật, còn quyền hành pháp là quyền quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược, còn quyền tư pháp là quyền trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân. Nếu coi việc trừng trị tội phạm chính là việc giải quyết một tranh chấp công giữa nhà nước và người phạm tội thì có thể nói gọn lại, trong quan niệm của Montesquieu, quyền tư pháp chính là quyền xét xử các tranh chấp giữa các chủ thể pháp lý trong xã hội. Đây là quyền áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan để xác định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, hậu quả pháp lý của các bên tham gia tranh chấp dựa trên những tình tiết khách quan của vụ việc. Thông qua việc thực hiện quyền tư pháp, pháp luật được áp dụng, tôn trọng và chấp hành bởi các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Nói cách khác, một trong những đầu vào khi thực hiện quyền tư pháp chính là pháp luật - sản phẩm của quyền lập pháp.Việc thực hiện quyền tư pháp chính là một trong những cách hữu hiệu để quyền lập pháp mang giá trị xã hội đích thực và được tôn trọng về mặt thực tế.

Ở Việt Nam, theo nhiều nhà nghiên cứu, quyền tư pháp được định nghĩa là quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, hành chính. Như vậy, tuy đi vào câu chữ cụ thể, quan niệm về quyền tư pháp của Montesquieu cũng như ở các nước với quan niệm về quyền tư pháp mà các học giả Việt Nam sử dụng có thể có sự khác biệt nhất định, nhưng về cơ bản, các quan niệm này đều thống nhất với nhau rằng, quyền tư pháp là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý dựa trên các quy định của pháp luật. Các tranh chấp này có thể chỉ là giữa người dân hoặc tổ chức do người dân lập ra như doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức xã hội… với nhau nhưng đó cũng có thể là tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc tranh chấp giữa cơ quan nhà nước với người dân, tổ chức do người dân lập nên.

2. Quyền tư pháp theo Hiến pháp hiện hành:

Trong Hiến pháp 2013, quy định về quyền tư pháp có những sửa đổi, bổ sung quan trọng và đây là bước tiến dài trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta.

Nhiệm vụ cụ thể hóa các quy định này của Hiến pháp trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi là rất quan trọng. Với tư cách là một đạo luật về tổ chức và hoạt động của một cơ quan trong bộ máy Nhà nước, Luật này sẽ bám sát các quy định của Hiến pháp về tổ chức và thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn xét xử của Tòa án.

Trước hết, Điều 107 Hiến pháp 2013 khẳng định: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp chứ không chỉ là cơ quan xét xử như Hiến pháp 1992 quy định. Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp hoàn toàn phù hợp với Điều 2 về nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước khi mà quyền tư pháp được thừa nhận: Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy không thừa nhận nguyên tắc tam quyền phân lập nhưng trong Hiến pháp nước ta, quyền tư pháp vẫn đảm bảo độc lập và kiểm soát quyền khác trong cơ chế quyền lực thống nhất ở Quốc hội.

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi sẽ có nhiệm vụ quan trọng là cụ thể hóa nội dung của quyền tư pháp quy định trong Hiến pháp. Để làm được điều đó, trước hết cần dựa trên nhận thức thống nhất về nội dung của quyền này trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Quyền tư pháp trước hết là quyền xét xử nhưng với tư cách là một loại quyền lực Nhà nước. Quyền tư pháp còn bao hàm nội dung như quyền giải thích pháp luật, quyền kiểm soát các nhánh quyền lực khác theo tinh thần kiểm soát quyền lực quy định tại Điều 2 Hiến pháp. Chính vì vậy, Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi bổ sung nhiệm vụ của Tòa án là: Thông qua hoạt động xét xử, phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội... Quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp.

Về mặt thực tiễn, để đảm bảo cho Tòa án, với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp đồng thời kiểm soát quyền lực, cần củng cố tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án hành chính. Thiết chế Tòa án hành chính đã hiện diện ở nước ta và được coi là biểu hiện sinh động nhất của việc Tòa án kiểm soát các cơ quan hành pháp. Hoạt động của Tòa án hành chính cần được mở rộng thẩm quyền và nâng cao hiệu quả hơn nữa để đáp ứng nhu cầu kiểm soát quyền lực.

Sửa đổi quan trọng trong chương về Tòa án là việc Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thay cho Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân như Hiến pháp hiện hành quy định. Đây cũng là bước đột phá trong tư duy về pháp luật, tư pháp và Nhà nước pháp quyền. Công lý là lẽ phải, sự công bằng được xã hội thừa nhận. Pháp luật đồng nghĩa với công lý khi nó chuyển tải được những giá trị của công lý. Tuy nhiên, điều đó luôn là mơ ước bởi nhiều khi quá sức đối với pháp luật, nhất là hệ thống pháp luật đang trong quá trình hoàn thiện. Chính vì vậy, việc khẳng định Tòa án trước hết có nhiệm vụ bảo vệ công lý là hoàn toàn phù hợp.

Từ việc khẳng định Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý sẽ là cơ sở để củng cố chế định về Hội thẩm nhân dân, áp dụng án lệ, tập quán trong quá trình xét xử và áp dụng pháp luật đúng theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp. Trong Nghị quyết này có chỉ đạo việc xây dựng án lệ như là sự bổ sung cần thiết cho khoảng trống của pháp luật và đảm bảo công lý. Chính vì vậy, điểm c khoản 2 Điều 12, dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi đã cho thấy nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao phát triển án lệ là phù hợp với tinh thần của Hiến pháp về nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý, phù hợp với việc khẳng định Tòa án thực hiện quyền tư pháp, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế mọi mặt và đảm bảo chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp

Nói đến quyền tư pháp là nói đến sự độc lập như một yếu tố thuộc bản chất của nó. Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi đã thể hiện được một bước tiến quan trọng nhằm đảm bảo sự độc lập của Tòa án. Sự độc lập của Tòa án có thể xét dưới nhiều góc độ, trong đó độc lập trong việc giải thích pháp luật là một nội dung quan trọng. Nói cách khác, phán quyết của Tòa án không thể độc lập nếu Tòa án không được giải thích pháp luật. Tuy nhiên, việc giao Tòa án giải thích pháp luật là vấn đề quan trọng, cần tiếp tục nghiên cứu. Chính vì thế, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi cần có quy định mở về vấn đề này bằng việc quy định: Tòa án nhân dân thực hiện các quyền khác theo quy định của Hiến pháp và Luật chứ không phải pháp luật.

Nhìn chung, điểm nổi bật trong Hiến pháp lần này liên quan đến quyền tư pháp, đó là nguyên tắc tranh tụng đã được hiến định. Tìm ra chân lý trong tố tụng có nhiều con đường và cách thức khác nhau. Tố tụng tranh tụng là mô hình được nhiều quốc gia ưa thích. Việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp là sự phù hợp rất logic với việc thừa nhận sự tồn tại của quyền tư pháp và giao cho Tòa án thực hiện quyền tư pháp. Bởi lẽ, đặc thù của tố tụng tranh tụng là sự phân định rạch ròi ba chức năng buộc tội - gỡ tội và xét xử, mỗi chức năng đó do một chủ thể đảm nhiệm. 

3. Các nguyên tắc cơ bản của cải cách tư pháp:

Công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế; giữ vững bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp. Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước.

Trên tinh thần những quan điểm chỉ đạo cơ bản đó, cần xác định bước đi và phương thức thực hiện cải cách tư pháp cho thích hợp. Trước hết, cải cách tư pháp phải được tiến hành tổng thể trong cải cách bộ máy nhà nước, trong sự liên hệ mật thiết với cải cách hành chính. Quá trình cải cách đó không thể tách rời việc đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tiếp đến, cải cách tư pháp phải hướng tới việc thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động tư pháp như: mỗi cơ quan thực hiện từng khâu của tiến trình tố tụng phải chịu trách nhiệm độc lập về kết luận của mình; bảo đảm tính khách quan của việc xét xử hai cấp; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử ; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; quyền bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm ; nhân dân tham gia, kiểm tra và giám sát hoạt động tư pháp… Cuối cùng, cải cách tư pháp là một nhiệm vụ bao quát nhiều lĩnh vực trên một phạm vi khá rộng. Thực hiện nhiệm vụ này phải tiến hành từng bước, nhanh chóng nhưng phải thận trọng và hiệu quả, cần lựa chọn những vấn đề cấp bách để triển khai trước. Không thể quan niệm rằng, cải cách tư pháp chỉ cần điều chỉnh một đôi chỗ về thiết chế và thể chế là đủ. Chúng ta phải nghiên cứu, tiến hành cuộc cải cách này theo tinh thần mới, tinh thần tự phê phán. Cần thấy rõ những mặt được, chưa được, những bất cập của hệ thống tư pháp hiện nay để cuộc cải cách đi đúng hướng và có trọng tâm, trọng điểm. Trong việc tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, cần khách quan, thận trọng bám sát thực tế nước ta.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành