1. Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong công tác xét xử:
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Bộ luật tố Hình sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự, việc tham gia của hội thẩm nhân dân là một trong những yêu cầu bắt buộc trong quá trình xét xử sơ thẩm các vụ án. Từ quy định như vậy, có thể thấy vai trò của hội thẩm nhân dân là hết sức quan trọng trong việc xét xử sơ thẩm các vụ án ở nước ta.
Ở nước ta, đã có nhiều cách giải thích khác nhau về sự ra đời của chế định hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử. Có ý kiến cho rằng, với sự giao thoa và tiếp nhận văn hoá pháp lý Trung Quốc thì các tư tưởng về pháp luật của nho giáo Trung Quốc ảnh hưởng khá đậm nét văn hóa pháp lý Việt Nam. Do đó, các chế định pháp luật của nước ta cũng mang đậm dấu ấn của tư tưởng nho giáo đó là tính trọng tình: Trăm cái lý không bằng tí cái tình… Cho nên, pháp luật chưa phải là quy tắc cao nhất để phán xét đối với hành vi của xã hội. Vì vậy, cần phải có tiếng nói từ phía người dân, từ phía xã hội thì mới coi đó là các phán xét thấu tình, đạt lý và những người góp phần mang lại tiếng nói đó chính là các hội thẩm nhân dân được đề cử. Có cách lý giải khác cho rằng, trong một Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân dân, vì nhân dân thì việc quy định về số lượng của hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử cũng là thể hiện tính nhân dân của Nhà nước pháp quyền đó…
Nhìn từ khía cạnh Nhà nước pháp quyền thì các cách lý giải trên đều có vẻ là chưa thoả đáng. Bởi lẽ, vấn đề mấu chốt của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm tính thượng tôn pháp luật. Pháp luật chỉ được thượng tôn khi mà mọi quy định của pháp luật phải được nghiêm chỉnh tuân thủ một cách triệt để, việc này đồng nghĩa với việc Nhà nước pháp quyền không có đất cho cái tình trong các phán xét của toà án, hay việc đảm bảo tuân thủ triệt để pháp luật cũng không còn chỗ cho những phán xét nhiều tính nhân dân nhưng thiếu tính pháp lý trong đó.
Bên cạnh đó, từ thực tiễn chúng ta thấy, nguồn của các hội thẩm nhân dân ở nước ta hiện nay thường là các cán bộ, công, viên chức của các cơ quan nhà nước hoặc đương chức hoặc đã về hưu, do Mặt trận Tổ quốc giới thiệu nên có lẽ tính nhân dân trong đó cũng không quá nhiều. Vậy vấn đề đặt ra đối với các hội thẩm nhân dân là họ giữ vai trò như thế nào trong Hội đồng xét xử ở nước ta hiện nay mới được coi là đúng. Nếu việc xét xử chỉ thuần tuý là việc áp dụng một cách cơ học các quy phạm pháp luật vào vụ án thì có lẽ chúng ta nên sử dụng một Hội đồng xét xử gồm 3 thẩm phán chứ không nên sử dụng Hội đồng xét xử gồm 2 hội thẩm nhân dân và 1 thẩm phán. Vì rõ ràng những Thẩm phán được đào tạo về kiến thức pháp luật một cách thành thạo hơn và chuyên nghiệp hơn sẽ là những người áp dụng pháp luật tốt hơn.
Xét ở khía cạnh xã hội và khía cạnh lập pháp trong Nhà nước pháp quyền, chúng ta cần lưu ý đến hai khía cạnh khá quan trọng trong các lý thuyết cũng như thực tiễn pháp lý. Đó là, tính trễ của các quy phạm pháp luật so với thực tiễn. Nghĩa là, các quy phạm pháp luật chỉ được xây dựng trên cơ sở các vấn đề đã có trên thực tiễn một hoặc nhiều lần hay bằng cách dự liệu nó sẽ xảy ra trên thực tiễn. Bên cạnh đó, ngoài các quy phạm pháp luật thực định pháp luật còn chứa đựng trong đó một giá trị lớn hơn đó là tinh thần pháp luật. Tinh thần pháp luật có thể hiểu một cách đơn giản là cái đích mà pháp luật mong muốn hướng đến. Từ các khía cạnh trên, có thể thấy rằng việc quy định về hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử là hoàn toàn có cơ sở và không trái với các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền.
2. Bất cập về chế định Hội thẩm nhân dân ở nước ta:
Xem xét về quy trình bổ nhiệm hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ hiện nay của chúng ta, có thể thấy rằng đây là một trong những quy định khá bất cập và đã lái ý nghĩa của hội thẩm nhân dân sang một hướng khác chứ không còn mang nhiều ý nghĩa về mặt xã hội của chế định này. Vì ý nghĩa mà các hội thẩm nhân dân đem lại trong Hội đồng xét xử phải là sự đồng cảm, những kiến thức, kinh nghiệm sống thực tiễn mà trong cùng hoàn cảnh sống hoặc rất gần hoàn cảnh sống đối với các bị cáo, nguyên đơn, bị đơn trong các vụ án được đem ra xét xử chứ không phải là những người được cơ quan công quyền tin cậy. Vì các vụ án trong xã hội xảy ra muôn màu muôn vẻ, các vấn đề nảy sinh ở nhiều lĩnh vực khác nhau và chứa đựng yếu tố bất ngờ do đó không thể lường trước được đâu là lĩnh vực có thể xảy ra tình huống tranh chấp hay phạm tội. Các hội thẩm nhân dân đã được bổ nhiệm trước không phải lúc nào cũng có thể đưa ra được một nhận xét đúng đắn đối với tình tiết của vụ án đó.
Theo Quy chế về tổ chức và hoạt động hội thẩm toà án nhân dân, mặc dù có quy định trách nhiệm của hội thẩm nhân dân, nhưng những quy định như vậy thực chất là hình thức và thiếu thực tiễn. Hình thức cao nhất trong việc truy cứu trách nhiệm của hội thẩm nhân dân mặc dù là truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng quy định này hoàn toàn thiếu các căn cứ pháp lý. Cụ thể là: Mục đích và yêu cầu đối với hội thẩm nhân dân như quy định pháp luật hiện nay, việc đòi hỏi trình độ của họ giống như thẩm phán và áp dụng đúng pháp luật là thiếu cơ sở. Vì yêu cầu đối với hội thẩm nhân dân là chỉ hiểu pháp luật chứ không phải chuyên gia về pháp luật trong vụ án mà họ tham gia xét xử.
Ở khía cạnh thực tiễn, các nhà làm luật đã nhầm lẫn vai trò xét xử của thẩm phán và vai trò nhận định xã hội của các hội thẩm nhân dân đối với vụ án, do đó việc yêu cầu hội thẩm nhân dân xét xử vụ án là hoàn toàn thiếu cơ sở thực tiễn, vì họ không được đào tạo qua lớp các chức danh tư pháp và đại học luật để có thể biết được các kỹ năng áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử. Từ cách thức lựa chọn hội thẩm nhân dân hiện nay ở nước ta, chúng ta thấy hầu hết nguồn của hội thẩm nhân dân là các công chức, viên chức nhà nước kiêm nhiệm hoặc đã nghỉ hưu. Động lực để họ tham gia vào vụ án là không được cao vì lợi ích của họ trong các vụ án cũng chẳng có nhiều. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân: Về thu nhập, đây không phải là nguồn thu nhập có thể nuôi sống gia đình và bản thân; Về trách nhiệm công vụ, đây cũng không phải là nơi họ sẽ bị kỷ luật lao động như thăng, giáng cấp, nâng lương, trừ lương, có chăng chỉ là có được tham gia ở nhiệm kỳ tiếp theo hay không, hay có được thường xuyên tham gia xét xử hay không mà thôi; Về trách nhiệm xã hội, việc đồng cảm về mặt xã hội đối với bị cáo hay các nguyên đơn, bị đơn trong vụ án cũng không được kỳ vọng nhiều vì những hội thẩm nhân dân được bầu theo hình thức này không có quá nhiều sự đồng cảm về suy nghĩ, môi trường sống, hoàn cảnh sống…, nên dường như họ đang ở bên ngoài hoàn cảnh của các đương sự. Và trong một xã hội còn có xu hướng trọng danh như nước ta hiện nay thì có vẻ việc có được thẩm quyền phán xét sẽ đưa nhiều hội thẩm nhân dân được bổ nhiệm kiểu này lên một tầm cao hơn trong xã hội chứ không có vẻ là làm cho họ đồng cảm và có trách nhiệm về xã hội đối với các đương sự trong vụ án.
Từ những vấn đề trên có thể thấy, chính sự thiếu thực tiễn trong quy định về chế định hội thẩm nhân dân nên hội thẩm nhân dân là đối tượng có thể dễ bị các đối tượng tác động trong các vụ án sơ thẩm. Dẫn đến việc thiếu tin tưởng vào hội thẩm nhân dân nói riêng và Hội đồng xét xử sơ thẩm nói chung. Thực tế là hiện nay đa số các bản án sơ thẩm đều bị kháng cáo phúc thẩm. Điều này dẫn đến những lãng phí vô cùng to lớn về thời gian và tiền bạc của xã hội. Bên cạnh đó, việc quy định thiếu thực tiễn về chế định hội thẩm nhân dân đã làm cho nhiều hội thẩm nhân dân trở thành những người thừa hành của Thẩm phán. Do khi tranh luận để nghị án, hội thẩm nhân dân thường là người yếu thế hơn thẩm phán trong việc xác định pháp luật áp dụng nên họ sẽ để các thẩm phán tự dẫn chiếu quy phạm và luật để áp dụng chứ chẳng dại gì tham gia vào đó.
Chính vì những lý do trên, việc xác định cho đúng vai trò và thành phần của các hội thẩm nhân dân nên được các nhà làm luật quy định làm sao cho sát đòi hỏi của thực tế tránh những quy định mang tính hình thức và những lãng phí về mặt xã hội.
3. Một số kiến nghị:
Đối với các vụ án hình sự: Cần phải tách quy trình tham gia của hội thẩm nhân dân đối với từng công đoạn của quá trình xét xử. Ví dụ, trong quá trình nghị án, thẩm phán chỉ nên lấy ý kiến của các hội thẩm nhân dân để thẩm định rằng: Cáo trạng của viện kiểm sát đưa ra có khách quan theo niềm tin nội tâm của hội thẩm nhân dân và so với những gì mà hội thẩm nhân dân biết được hay không; Hành vi mà bị cáo đã thực hiện trước đó có đáng bị coi là có tội hay không; Dựa trên nghề nghiệp, kinh nghiệm sống, môi trường mà hội thẩm nhân dân đang sống rất giống hoặc rất gần bị cáo…, thì hội thẩm nhân dân đưa ra kết luận là hành vi do bị cáo gây ra là nguy hiểm hay không nguy hiểm đối với cộng đồng, nếu các hội thẩm nhân dân cho rằng hành vi đó nguy hiểm đối với cộng đồng thì mới yêu cầu thẩm phán kết tội bị cáo, còn việc kết tội gì thì thẩm phán cần viện dẫn các điều luật cụ thể để áp dụng và các hội thẩm nhân dân chỉ nên đánh giá và xem xét các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ đối với người phạm tội thông qua niềm tin nội tâm của hội thẩm, các kiến thức xã hội mà hội thẩm nhân dân có được. Ngược lại khi thảo luận để nghị án, các hội thẩm nhân dân cho rằng các hành vi như vậy là bình thường và không bị coi là nguy hiểm cho xã hội trong môi trường bị cáo đang sống thì hội thẩm nhân dân có quyền đề nghị thẩm phán trả tự do và tuyên vô tội cho bị cáo, đồng thời phản đối các phán quyết buộc tội của thẩm phán nếu thẩm phán vẫn buộc tội đối với bị cáo thì hội thẩm nhân dân có quyền bảo lưu ý kiến của mình trong hồ sơ vụ án.
Đối với các vụ án dân sự: Những người được chỉ định là hội thẩm nhân dân trong các vụ án dân sự nên được coi là những người hiểu biết sâu về những đối tượng mà các bên tranh chấp. Chẳng hạn, nếu giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực đất đai thì hội thẩm nhân dân có thể là những người hiểu biết về nguồn gốc, xuất xứ quyền sử dụng của mảnh đất đó. Hay tranh chấp hợp đồng thuê tàu thì hội thẩm nhân dân phải là những người am hiểu về thực tiễn các hoạt động đó… Và với tư cách là thành viên của Hội đồng xét xử thì hội thẩm nhân dân sẽ trình bày ý kiến của mình trước thẩm phán trong khi nghị án, việc áp dụng luật để ra phán quyết thì hội thẩm nhân dân nhường lại quyền đó cho thẩm phán quyết định. Việc không đồng tình với phán quyết của thẩm phán, hội thẩm nhân dân có quyền bảo lưu các ý kiến của mình trong hồ sơ vụ án.