Chủ nhật, 15 Tháng 3 2015 00:00

Tác động của tỷ giá đến phát triển kinh tế xã hội

(Ảnh minh họa) (Ảnh minh họa)

Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hôi 2001 – 2010, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thoát khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm các nước đang phát triển có chỉ số tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 7,26%/năm và tổng sản phẩm thu nhập bình quân đạt 1.1168USD.

Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa 10, mục tiêu phát triển đất nước 5 năm (2011-2015) đã được cụ thể hóa thành các chỉ tiêu, trong đó có một nhiệm vụ quan trọng “kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu”.

Điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể thực hiện được nhiệm vụ nêu trên là phải đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó có chính sách tỷ giá.

Tỷ giá là một biến số quan trọng của nền kinh tế mở. Nó có mối liên hệ tác động qua lại với các chỉ số vĩ mô như lãi suất, tỷ lệ lạm phát, tăng trưởng kinh tế, và cán cân thanh toán quốc tế. Đặc biệt, ở những quốc gia đang áp dụng chế độ tỷ giá cố định, hay thả nổi có điều tiết, hoặc neo đậu với một đồng tiền (trong đó có Việt Nam), sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các biến số này càng sâu sắc hơn cả.

Với mục tiêu giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền và đảm bảo sự cân bằng của cán cân vãng lai, NHNN Việt nam được giao nhiệm vụ là cơ quan điều hành, thực thi chính sách tỷ giá quốc gia với hai nhiệm vụ cơ bản là  xác định chế độ tỷ giá phù hợp  và  điều tiết tỷ giá.

Chính sách tỷ giá của Việt nam từ chỗ cứng nhắc, mang nặng tính chủ quan đã trở nên linh hoạt hơn, theo sát diễn biến của thị trường. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa tìm ra được hướng điều hành tỷ giá thực sự chủ động, nhất là trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, tác động đa chiều tới nền kinh tế trong nước. Số liệu thống kê về thâm hụt cán cân thương mại cũng như tốc độ tăng trưởng của Việt nam trong vài năm trở lại đây cho thấy sự bấp bênh, không ổn định. Năm 2010 và 2011 đã chứng kiến sự lặp lại tình trạng của năm 2008, khi càng về cuối năm, lạm phát càng tiến nhanh tới mức hai con số (gần 12% năm 2010 và gần 19% năm 2011), vượt xa mục tiêu mà Quốc hội đã đặt ra từ đầu năm. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát của các tháng năm 2014 so với cùng kỳ đạt cao nhất vào tháng 1 cũng chỉ là 5,45%. Kể từ tháng 6, tỷ lệ tăng của CPI ngày càng giảm. CPI tháng 12 chỉ tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2013, kéo tỷ lệ lạm phát bình quân tháng chỉ còn 4,09%/năm, thấp hơn mức trung bình của năm 2013 là 2,5 điểm phần trăm. Bình luận về vấn đề này, có ý kiến cho rằng việc áp dụng chính sách tỷ giá có quản lý với sự can thiệp chủ yếu mang tính chất hành chính của NHNN đã bóp méo thị trường và là nguyên nhân chính gây nên tình trạng bất ổn của thị trường ngoại hối. Bài toán cho việc cân bằng tỷ giá, lãi suất, lạm phát cán cân thanh toán quốc tế của Việt nam vẫn chưa có lời giải thuyết phục.

Tỷ giá và chính sách tỷ giá không phải là đề tài mới, nhưng diễn biến của tỷ giá thì luôn luôn mới, và chừng nào nền kinh tế mở còn tồn tại thì tỷ giá vẫn luôn tác động tới toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của một quốc gia. Chính sách tỷ giá có tầm ảnh hưởng mang tính chất trường tồn tới các biến số kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện hiện tại cũng như trong khoảng 10 năm tới, chế độ tỷ giá của Việt Nam khó có thể chuyển sang thả nổi. Chỉ khi nào áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi, Chính phủ mới tập trung vào chính sách tiền tệ với công cụ chủ yếu là lãi suất. Hiện tại, tỷ giá vẫn là một trong số các công cụ quan trọng của NHNN Việt Nam. Việc hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam nửa cuối giai đoạn 2010-2020 là rất cần thiết bởi sự biến động của tỷ giá tác động tới các chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường ngoại hối, đó là các cá nhân, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các công ty đa quốc gia, ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng, Ngân hàng trung ương…và như vậy tỷ giá ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Khi tỷ giá thay đổi dẫn đến sự thay đổi cung và cầu ngoại tệ trên thị trường, từ đó tác động tới các biến số kinh tế vĩ mô quan trọng của tứ  giác kinh tế, đó là: thu nhập quốc dân, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán quốc tế.

Trong một nền kinh tế mở, tỷ giá phản ánh mức giá tương đối giữa hàng hóa nội địa với hàng hóa cạnh tranh của nước ngoài. Trong điều kiện mức giá bán là không đổi, khi tỷ giá tăng, hàng hóa xuất khẩu trở nên rẻ tương đối và hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt tương đối so với hàng hóa nước ngoài. Xuất khẩu được khuyến khích và nhập khẩu bị hạn chế, cán cân thương mại có xu hướng từ thâm hụt trở về cân bằng hoặc thặng dư. Ngược lại, khi tỷ giá giảm, số ngoại tệ mà nhà xuất khẩu thu được khi chuyển về nội tệ sẽ được một lượng ít hơn, trong khi nhà nhập khẩu phải trả ít nội tệ hơn cho một số lượng ngoại tệ thanh toán cho đối tác nước ngoài. Xu hướng nhập khẩu nhiều hơn trong khi xuất khẩu giảm khiến cán cân thương mại có thể từ trạng thái thặng dư trở về cân bằng hoặc thâm hụt.

Tỷ giá tác động tới lạm phát qua hai kênh. Thứ nhất, tỷ giá thay đổi sẽ ảnh hưởng tới giá tính bằng nội tệ của hàng hóa nhập khẩu. Giá này được tính vào chỉ số giá tiêu dùng, chỉ tiêu chủ yếu đô lường mức độ lạm phát. Thứ hai, như đã nêu ở trên, tỷ giá thực tác động tới mức giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa sản xuất ở nước ngoài. Mức giá tương đối này ảnh hưởng tới cầu trong nước và cầu ngoài nước đối với hàng hóa sản xuất trong một quốc gia. Tổng cầu bị ảnh hưởng tất yếu sẽ ảnh hưởng tới lạm phát, cụ thể khi tổng cầu tăng, lạm phát sẽ tăng, và ngược lại.

Về mặt lý luận, tác động này của tỷ giá chưa được bàn luận nhiều ở Việt Nam. Với mong muốn phát triển lý luận về ảnh hưởng của tỷ giá tới quá trình cân đối tiền tệ của ngân hàng nhà nước, do nhận thấy tỷ giá có mối liên hệ tới khả năng thanh khoản và an toàn tài chính quốc gia, nghiên cứu sinh xin dành một thời lượng lớn hơn để trình bày vấn đề này. Ngân hàng nhà nước là cơ quan điều hành và thực thi chính sách tiền tệ của một quốc gia. Bảng cân đối tiền tệ của ngân hàng nhà nước được xây dựng trên cơ sở phân tổ các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán của các đơn vị thuộc ngân hàng nhà nước theo phương pháp thống kê tiền tệ, do Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nghiên cứu và thiết kế.

Quá trình cân đối tiền tệ của một ngân hàng nhà nước thường xoay quanh 3 chức năng cơ bản của cơ quan này là phát hành tiền; Ngân hàng của Chính phủ và ngân hàng của các ngân hàng. Ngân hàng nhà nước là chủ thể nắm trong tay quyền lực phát hành tiền và như vậy có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng hay giảm giá của đồng nội tệ, vì vậy, quá trình cân đối tiền tệ của ngân hàng nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng.

Như vậy, quá trình cân đối tiền tệ của ngân hàng nhà nước cho biết khối lượng tiền dự trữ của ngân hàng nhà nước tại một thời điểm nhất định, bao gồm toàn bộ số tiền mà dân chúng, tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng nắm giữ dưới dạng tiền mặt và số tiền tổ chức tín dụng đang gửi tại ngân hàng nhà nước. Quá trình cân đối tiền tệ của ngân hàng nhà nước còn là căn cứ để xác định lượng dự trữ ngoại hối nhà nước do ngân hàng nhà nước đang quản lý tại một thời điểm nhất định, là chỉ tiêu quan trọng để lập cán cân thanh toán quốc tế.

Tài sản nước ngoài: tài sản nước ngoài của ngân hàng nhà nước thể hiện ở dự trữ ngoại hối, thường bao gồm vàng, SDR, và ngoại tệ. Dự trữ luôn đóng một vai trò quan trọng vì nó thể hiện sức mạnh tài chính, khả năng thanh khoản của Chính phủ một quốc gia, đồng thời là phương tiện để ngân hàng nhà nước có thể can thiệp trên thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng nội tệ. Quy mô dự trữ của ngân hàng nhà nước giữa các quốc gia khác nhau là khác nhau. So với các nước phát triển, ngân hàng nhà nước của các quốc gia mới nổi thường duy trì một khối lượng dự trữ lớn hơn, do các nước này không có đủ sức mạnh tài chính để bảo vệ cho bảng cân đối tiền tệ của chính mình.

Đối với hoạt động cho vay và ứng trước: ngân hàng nhà nước cho Chính phủ và các tổ chức tín dụng vay nhằm thực hiện chức năng điều hành thị trường tiền tệ và quản lý thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Trên thế giới, đa số các ngân hàng trung ương không được phép cho Chính phủ vay, ví dụ ở Braxin, Chile, Peru, Ba Lan luật nghiêm cấm điều này. Ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, việc Chính phủ vay từ ngân hàng trung ương vẫn diễn ra, với lý do khu vực tài chính trong nước còn rất nhỏ bé. Nếu Chính phủ không vay được từ ngân hàng trung ương, điều đó có nghĩa là Chính phủ sẽ không thể có khả năng bù đắp được khoảng trống giữa các khoản thu và chi.

Đối với hoạt động lưu thông tiền tệ thì phát hành tiền là chức năng của hầu hết các ngân hàng trung ương trên thế giới. Khối lượng tiền trong lưu thông là bao nhiêu là do nhu cầu của công chúng quyết định. Tiền trong lưu thông bao gồm tiền xu, tiền giấy do công chúng nắm giữ, tiền cất trữ trong ngân hàng thương mại và tiền do ngân hàng trung ương nắm giữ. Vai trò truyền thống của tiền gửi Chính phủ là ngân hàng của Chính phủ, ngân hàng trung ương cũng nhận tiền gửi từ Chính phủ. Chính phủ quyết định gửi tiền vào ngân hàng trung ương thay vì gửi tiền vào ngân hàng thương mại vì những lý do sau: việc Chính phủ gửi tiền vào một ngân hàng nào đó có thể khiến các đối thủ cạnh tranh là các ngân hàng khác cảm thấy họ không nhận được sự ưu ái; hơn nữa, Chính phủ biết rằng gửi tiền vào ngân hàng trung ương tránh được rủi ro tín dụng do ngân hàng trung ương sẽ không bao giờ rơi vào tình trạng phá sản. Sự thay đổi lượng tiền gửi của Chính phủ vào ngân hàng trung ương sẽ ảnh hưởng tới mức cung tiền và có thể trở thành một công cụ hữu hiệu để ngân hàng trung ương thực thi chính sách tiền tệ. Trước khủng hoảng tiền tệ 1997, khi dòng vốn chảy ào ạt vào Châu Á, lượng tiền gửi tăng lên của Chính phủ vào ngân hàng trung ương đã giúp trung hòa một phần dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, trong một hoàn cảnh nào đó thì tiền gửi của Chính phủ có thể trở thành một khoản mục đầy biến động, gây nên rủi ro thanh khoản.

Đối với các khoản tiền gửi của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại duy trì số dư tiền gửi tại ngân hàng trung ương nhằm mục tiêu đáp ứng yêu cầu dự trữ bắt buộc và thực hiện các giao dịch liên ngân hàng.

Trên thế giới, phần lớn các ngân hàng trung ương là cơ quan trực thuộc Chính phủ, với tỷ lệ cổ phần của Chính phủ luôn chiếm ưu thế, cho dù cổ phiếu của ngân hàng trung ương được giao dịch trên thị trường. Công tác phát hành tiền của ngân hàng trung ương thường là do Nhà nước và Chính phủ điều phối. ngân hàng trung ương hoạt động với tư cách là ngân hàng của Chính phủ. Vì vậy, ngân hàng trung ương cũng có thể được coi là nhà quản lý nợ công của một quốc gia. Quá trình cân đối tiền tệ của một ngân hàng trung ương thường được phân tích đồng thời từ hai giác độ: một, khả năng phát hành tiền và hai, khả năng đạt được mục tiêu ổn định giá cả và tăng trưởng. Trong quá trình cân đối các cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ thường quan tâm tới khả năng thanh khoản thể hiện trên hai khoản mục tiền dự trữ, bao gồm tiền trong lưu thông và số dư tiền gửi của các ngân hàng tại ngân hàng trung ương: đây là nguồn để tạo ra cung tiền thông qua quá trình tạo tiền theo cấp số nhân và tiền dự trữ vượt mức: chỉ tiêu này đo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Các công cụ của ngân hàng trung ương trong điều hành chính sách tiền tệ bao gồm: nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và chính sách lãi suất. Quy mô khối lượng tiền tệ của ngân hàng trung ương phụ thuộc vào điều kiện kinh tế vĩ mô cụ thể của từng quốc gia. Tuy nhiên, quy mô của quá trình cân đối tiền tệ của một ngân hàng trung ương thể hiện mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển về mặt tài chính. Khi giá trị tài sản trong quá trình cân đối tiền tệ tăng mạnh, điều này chưa phải đã tốt, vì như vậy cũng đồng nghĩa với việc gia tăng một khối lượng nợ tương ứng, tức là càng có nhiều tiền được lưu thông trong nền kinh tế. Như vậy, giá trị tài sản – nợ của ngân hàng trung ương cùng gia tăng mạnh, vượt quá mức tăng cầu tiền của nền kinh tế từ mức tăng trưởng GDP là dấu hiệu của chính sách tiền tệ mở rộng, nếu kéo dài sẽ gây ra lạm phát.

Trong cơ cấu tài sản của ngân hàng trung ương bao gồm cả tài sản ngoại tệ và tài sản nội tệ. Việc hoán đổi hai loại tài sản này có tầm ảnh hưởng lớn tới tỷ giá. Chính sách tiền tệ thường được thực hiện thông qua việc mua bán các tài sản bằng nội tệ. Kể từ khi các ngân hàng trung ương ra đời cho đến nay, vai trò của các tổ chức này không còn đơn thuần chỉ là cơ quan “in tiền” nữa mà cao hơn cả, đây là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ giá trị đồng nội tệ.  Chính vì vậy, quá trình cân đối tiền tệ của ngân hàng trung ương không chỉ thể hiện số lượng hay giá trị tiền tệ, mà ẩn sâu trong đó là mối quan hệ giữa một bên là Chính phủ với một bên là các ngân hàng và hệ thống tài chính của một quốc gia. Không có gì ngạc nhiên khi trên thế giới, vấn đề cân đối tiền tệ của ngân hàng trung ương luôn nhận được sự chú ý, quan tâm của không chỉ những người làm công tác kế toán mà của cả các nhà kinh tế học, và quan trọng hơn, của các nhà hoạch định chính sách. Hiệu ứng tác động của tỷ giá tới quá trình cân đối tiền tệ của ngân hàng trung ương không chỉ liên quan tới khả năng thanh khoản của ngân hàng trung ương và khả năng ứng phó với khủng hoảng, mà còn có mối liên hệ mật thiết với sự hoàn thiện của chính sách tỷ giá. Bởi lẽ, dự trữ ngoại hối nằm trong cơ cấu tài sản của ngân hàng trung ương, và cùng với phá giá tiền tệ, dự trữ ngoại hối cũng là công cụ của chính sách tỷ giá.

     Rõ ràng, tỷ giá là một biến số quan trọng tác động tới hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế mở. Vậy sự biến động của tỷ giá là do năm nhóm nhân tố chủ yếu tác động tới sự thay đổi của tỷ giá bao gồm: chênh lệch tương đối về lạm phát; chênh lệch tương đối về lãi suất; chênh lệch tương đối về thu nhập giữa một quốc gia với các quốc gia khác, đặc biệt là với những nước đối tác thương mại quan trọng; sự thay đổi trong chính sách quản lý của nhà nước, và thay đổi kỳ vọng của thị trường về tỷ giá trong tương lai nhằm thúc đẩy các chỉnh số kinh tế xã hội phát triển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2010-2020.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành