Thứ năm, 06 Tháng 8 2015 00:00

Một số vấn đề về tổ chức tư pháp trong nhà nước pháp quyền

Trong mỗi một quốc gia pháp quyền được xây dựng bởi truyền thống văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, hay cách thức tổ chức nhà nước hoàn toàn không giống nhau. ở đây chúng ta bàn tới vấn đề cơ bản để xây dựng nên một tổ chức tư pháp nói riêng, chúng ta đều nhận thấy rằng nhà nước pháp quyền được xây dựng trên nền tảng chung. Nếu đánh giá một cách phiến diện nhất cũng phải công nhận rằng có một tổ chức tư pháp đúng nghĩa và luôn được đổi mới thì chúng ta đã xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền.

I. VAI TRÒ VÀ NHIỆM VỤ CỦA TƯ PHÁP

Khi chúng ta bàn về học thuyết phân chia quyền lực, vấn đề luôn gây tranh cãi không chỉ trong giới chính trị gia mà cả trong luật gia. Như luật gia nổi tiếng người Anh Phillip S. James cho rằng, xét về mặt thực tiễn hay lý thuyết để ấn định bất kỳ một hành vi cụ thể nào đó cho 3 nhánh quyền lực là không dễ dàng gì, bởi học thuyết này không thể thực hiện một cách nghiêm ngặt vì sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành của chính quyền. những lập luận của ông phù hợp với tổ chức đang hiện hành tại nước này, một nước mà giữa nghị viện và hệ thống tư pháp không phân chia rõ ràng, ngay cả người dân cũng không phân biệt được chính xác nhà nước có phân quyền hay không?, không như nước ta hệ thống tòa án hoàn toàn tách riêng nhưng vẫn chịu sự giám sát và kiểm soát của Quốc hội và viện liểm soát.

Xét về phương diện học thuật, ở nước ta hiện nay có rất nhiểu học giả cho rằng ngoài phân chia quyền lực thành 3 quyền chính quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (thường được gọi là tam quyền phân lập) thì chúng ta có thể mở rộng thêm hình thức phân quyền như quyền lực giám sát, quyền bầu cử…nhưng để làm được điều đó chúng ta cần dựa vào những căn cứ cụ thể mới có thể phân loại được. Những căn cứ đó dựa vào đâu để phân loại? Đó là dựa vào mối quan hệ giữa quyền lực chính trị và pháp luật. Như chúng ta đã nói, quyền lực mà nước việt nam hiện đang phân chia thành 3 quyền chính:  quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, và 3 quyền này thể hiện một như một sợi dây xích gắn chặt với nhau, nếu thiếu một mắt xích hay thừa một mắt xích cũng làm cho bộ máy hoạt động bất bình thường. Cho nên những dẫn chứng đưa ra cho thấy một số nước không ủng hộ mạnh mẽ cho việc phân chia này.

Bởi nếu chúng ta lập thêm một nhánh quyền lực để giám sát việc có tuân theo pháp luật hay không thì vô tình chúng ta đã làm các nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mất đi tác dụng. Mỗi cơ quan quyền lực nói riêng đều có cơ chế giám sát riêng, các cơ quan quyền lực nói chung, đều mang yếu tố kiểm soát lẫn nhau, trong đó chúng ta còn chưa nói đến sự giám sát vô cùng quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước và xã hội, đó là sự giám sát của nhân dân. Vì Nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta bàn về nhà nước pháp quyền thì không thể không bàn đến vấn đề phân chia quyền lực, một nền tư pháp hoàn toàn độc lập và các cơ quan nhà nước được giám sát bởi tư pháp. Đó là những yếu tố quan trọng cần phải có trong nhà nước pháp quyền. Chỉ sơ qua như vậy thôi chúng ta cũng đủ hiểu tầm quan trọng của tư pháp trong bộ máy tổ chức quyền lực của nhà nước, đặc biệt hơn nữa là việc xây dựng nhà máy pháp quyền. Để hiểu được nhiệm vụ của nền tư pháp và xây dựng nên nhiệm vụ đó, thì các quốc gia trên thế giới nói chung hay việt nam nói riêng cũng chưa hoàn toàn thống nhất.

Xét theo nghĩa rộng mô hình tố tụng hay luật tố tụng phải bao gồm tổ chức tư pháp, thẩm quyền, thủ tục tố tụng.và các mô hình tố tụng này là sự lựa chọn của tư pháp,  sự lựa chọn này có thể là khác nhau nhưng đều dựa trên một nền tảng nhất định. Mặc dù có những quan điểm đưa ra để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơ quan tiến hành tố tụng, và các quan điểm đó chỉ cho chúng ta thấy rằng tòa án là trọng tâm của tổ chức tư pháp.

Quyền lực tư pháp còn được xem là đồng nghĩa với hệ thống tòa án. Chẳng hạn Điều 92 của Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức tuyên bố: “Quyền lực tư pháp thuộc về các thẩm phán; nó được thực thi bởi Tòa án Hiến pháp Liên bang, các tòa án liên bang được qui định trong đạo luật cơ sở này, và các tòa án của các bang”.

Để chúng ta dễ hiểu hơn về khái niệm và nhiệm cụ của tư pháp theo cách hiểu thông thường, thì tư pháp có nghĩa là xét xử, nhiệm vụ chính của tư pháp áp dụng luật pháp vào những tranh chấp pháp lý và quan trọng hơn cả chính là nhiệm vụ giải thích luật, làm cho luật trở nên dễ hiểu hơn, cụ thể hơn. Một khi tòa án phải giải thích hay làm dễ hiểu luật đó thì chúng ta có thể hiểu rằng trong luật chưa quy định hoặc quy định không rõ ràng, tòa án phải phán quyết những trường hợp liên quan đó và đưa ra quyết định cuối cùng, chính vì thế mà đôi khi phải chấp nhận hình phạt ở mức độ nào đó. Đồng thời cũng là một ví dụ để giải quyết những vụ án tương tự về sau.

Có thể nói dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn ta nhận thấy rằng phía sau quyền lực tư pháp là cả một nguyên tắc tổ chức hệ thống tư pháp. Có một vấn đề khá quan trọng mà chúng ta cần xem xét trước khi chúng ta nói đến các nguyên tắc cụ thể của tổ chức tư pháp đó là tiêu chuẩn đánh giá hệ thống tư pháp

II. TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG TƯ PHÁP

Để đánh giá một cơ quan nhà nước hoạt động có chất lượng hay không chúng ta dựa vào các tiêu chuẩn rõ ràng, minh bạch để đánh giá. Dựa trên những tiêu chí đánh giá đó, mới có thể tìm ra giải pháp hiệu quả cho việc thiết lập lại hệ thống. Nhà Nước pháp quyền thì luôn luôn yêu cầu phải minh bạch, rõ ràng, công bằng và hợp lý. Đó là những tiêu chuẩn dành cho tổ chức bộ máy nhà nước, xây dựng, thi hành và áp dụng pháp luật. Nhưng như chúng ta đã thấy, thực tế các tiêu chuẩn ấy đang còn khá mù mờ, chưa rõ ràng, thậm chí ngay cả khi chúng ta yêu cầu cải cách tư pháp đặt rõ mục tiêu hay tiêu chuẩn để trong tương lai sẽ làm một cuộc cải cách rõ ràng hơn nữa nhưng vẫn chưa đủ điều kiện để đáp ứng.

Theo các nhà làm luật nhận định, đường lối chính trị của các quốc gia có thể là khác nhau nhưng bản chất cốt lõi của hệ thống tư pháp thì không có gì khác nhau. Không nói ở đâu xa, họ đánh giá ngay tại nước ta ở thời điểm hiện tại, trên thực tế nước ta không công khai có sự phân chia quyền lực, nhưng lại có sự phân biệt về chức năng giữa 3 cơ quan tư pháp, lập pháp và hành pháp. Cho nên chúng ta có thể thấy rõ khuynh hướng tổ chức tư pháp là hoàn toàn độc lập như sự khẳng định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm tòa án nhân dân tối cao và Tòa án khác do luật định.”.

Trong thời gian qua các nhà làm luật Việt Nam đã nghiên cứu và khảo sát các tiêu chuẩn hệ thống tư pháp của các nước châu âu và các nước trong khu vực, đã hình thành và đưa vào thực thì trong hệ thống tư pháp của ngước họ, đây là tiền đề cho việc hình thành hệ thống pháp luật riêng của Việt nam nhưng hợp với sự phát triển của thế giới. Vì hệ thống tư pháp của các nước phát triển trên thế giới đã được kiểm nghiệm qua thực tế , thờ gian dài ơ một số nước khác nhau. Sau đây là một hệ thống tiêu chuẩn đánh giá chất lượng tư pháp tại Anh quốc: Việc đánh giá hệ thống tư pháp hay nói cách khác chất lượng của hệ thống tư pháp căn cứ vào mức độ mà nó có thể duy trì sự cân đối giữa các quyền của cá nhân và các quyền lợi của cộng đồng. Hệ thống tư pháp nhất thiết phải bảo đảm rằng các bên trong của các vụ án dân sự có mọi cơ hội hợp lý để đưa ra các yêu cần hoặc để tự bảo vệ họ chống lại các yêu cầu không hợp lý. Còn các toà án hình sự nhất thiết phải bảo đảm rằng bị cáo không thể bị kết tội trừ khi có đầy đủ chứng cứ để chỉ ra rằng tội trạng của người đó nằm bên ngoài bất cứ một sự hoài nghi hợp lý nào. Người bị kết tội nhất thiết phải được giúp đỡ là tạo cơ hội đầy đủ cho việc chống đỡ để có thể sánh được một cách rõ ràng với quyền lực lớn hơn và với các cơ quan thi hành pháp luật. Mặt khác, những quyền lợi cộng đồng cũng được bảo vệ. Hệ thống tư pháp phải hoạt động làm sao để các lợi ích công cộng được bảo vệ thông qua việc thực thi những hạn chế và cưỡng chế cần thiết đối với cá nhân công dân, cũng như các tổ chức của họ. Những kẻ bất lương phải được đưa ra trước công lý. Và hệ thống tư pháp phải bảo vệ công cộng trước những tác hại do chúng gây ra.

Nhưng còn người châu âu và châu lục địa nện dân chủ là quan trọng, trong đó có người Anh họ đã cải cách tư pháp trong nhiều thập kỷ qua

Khi xây dựng các tiêu chí để đánh gia một vấn đề nào đó khiến con người thấy khó khăn hơn khi việc đáng giá đó phải cân đối giữa cá nhân và công đồng, đó là trong tiêu chí đánh gia xây dựng hệ thong tư pháp, giữa quyền con người và quyền lực của nhà nước, trong có có tính nhân đạo nhưng khô cứng thô bạo của sự cố chấp….chính vì thế đòi hỏi  tiêu chuẩn khi thiết lập hệ thông tư pháp phải điều hòa được tất cả nó giao nhiệm vụ cho tòa án. Tất cả mọi hệ thống pháp luật đểi dựa vào ác điều khoản của hiến pháp, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng thế, tại điều 1102 trong Hiếp pháp năm 2013 nêu rõ vai trò của tòa án như sau:

“Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Qua đây chúng ta thấy sự quan trọng của phái luật, nhà nước cói pháp luật là công cụ để trấn áp các tội phạp hay đúng hơn là giai cấp đi sai đường  lối của nhà nước, ngoài vòng pháp luật, ở mọi thể chế xã hội luôn đặt lợi ích của nhà nước là trên hết, nhà nước pháp quyền có những tiêu chí mà trong đó dân chủ và quyền tự do dân chủ cá nhân được cói là mục tiệu cao cả nhất và quan trong nhất. Điều nay khi xây dựng hệ thống tư pháp và đánh gia tiêu chỉ để xây dựng dân chủ và quyền tự do của cá nhân đực cho cao cả nhất và quan trọng nhất, thì lại không được cói là nhất theo vị chí của mục tiêu đã đặt ra.

III. CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC TƯ PHÁP

Trong  hệ thống pháp luật ở Việt Nam chúng ta hiện nay còn có nhiều quan niêm nhiều chồng lấn nhiều nguyên tắc tổ chức hoạt động của ngành tòa án, các thủ tục tố tụng còn rườm rà và không đồng nhất. Chính vì thế  khi nhìn vào chúng ta không thấy một nguyên tắc cơ bản của tổ chức hệ thống tư pháp. Hay đúng hơn các nguyên tắc tổ chức tư pháp của nước ta còn mờ nhạt.

Nói đến nguyên tắc tổ chức tư pháp chúng ta thấy ở các nước châu âu, như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật  các nguyên tắc tổ chức tư pháp được cọi như ngọn đuốc soi đượng cho hệhệ thông pháp luật. Ví dụ một số công trình giới thiệu hay nghiên cứu về hệ thống tư pháp của một nước:

Hệ thống tư pháp của Đức, Nigel Foster nhấn mạnh, do chế độ liên bang và truyền thống pháp điển hóa của Đức, hệ thống tư pháp của Đức được tổ chức theo hai nguyên tắc: chuyên môn hóa và tản quyền. Các tòa án ở Liên bang và các tòa ở các bang là hệ quả trực tiếp của nguyên tắc tản quyền. Còn nguyên tắc chuyên môn hóa tạo ra năm hệ thống tòa án có các thẩm quyền chuyên biệt: tòa án thường phán, tòa hành chính, tòa lao động, tòa xã hội và toà thuế vụ. Tuy nhiên, tổ chức tư pháp của Đức còn phải tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp là tổ chức tư pháp độc lập, và thiết lập tòa án hiến pháp. Ở Nhật, do ảnh hưởng của nguyên tắc về tính tối cao của tư pháp theo mô hình Mỹ, nên đã đặt tư pháp lên trên Nghị viện bởi nó có quyền kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật

Hệ thống tư pháp của Việt Nam chúng ta hiện nay tổ chức dựa trên Hiến pháp năm 2013 và có những nguyên tắc cơ bản như sau:

Thứ nhất:  Tòa án  là hệ thống tư pháp có quyền lức cao nhất và hoạt động độc lập chỉ tuân theo pháp luật nhưng chịu sự  giám sát của Quốc hội. Quốc hội giám sát hoạt động tư pháp vì các đại biểu được dân bầu để đóng góp tiếng nói của nhân dân tới Quốc hội. Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là thành viên Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp.

Thứ hai, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Chủ tịch nước.

Thứ ba, Tòa án nhân dân xét xử công khai và trên nguyên tắc tập thể, quyết định theo đa số trừ những trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.

Thứ tư, tòa án bị hạn chế về thẩm quyền đối với các tranh chấp pháp lý. Nguyên tắc này được thể hiện rõ rệt nhất ở việc tòa án không giải quyết các tranh chấp hiến pháp.

Qua đây chúng ta thất hệ thống tư pháp của chúng ta có quá nhiều nguyên tắc điều đó làm cho vai trò của tòa án không biết đâu là nhiệm vụ đích thực của mình. Trong thực tế tào án không thể thực thi được các nhiệm vụ như đã nói ở trên. Qua đây chúng ta cần xem xét giảm bớt các nguyên tắc trong hệ thống pháp luật nước ta, điều đó cần cải cách tư pháp và muốn làm được như hệ thống pháp luật các nước trước tiên các nhà làm luật cần xác định rõ một số tiêu trí sau. Vai trò, nhiệm vụ của tư pháp. Các nguyên tắc tổ chức tư pháp. Các Tiêu chuẩn đánh giá hay tổ chức hệ thống tư pháp. Để làm được công việc cải cách cụ thể, trước tiến các nhà làm luật phải đánh giá và xây dựng đươc các tiêu trí trên như một số quốc gia đã làm.

Nhà nước Pháp quyền ràng buộc nhà nước bởi pháp luật, chính vì thế đòi hỏi rất nhiều yêu cầu, trước tiên phải tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp và phân chia quyền lực trong bộ máy lãnh đạo, cơ quan tư pháp độc lập, giám sát các cơ quan nhà nước bằng tòa án, bảo vệ quyền con người... Chính vì, thế khi chúng ta muốn cải cách tư pháp đầu tiên phải xác định là Nhà nước Pháp quyền để xây dựng các nguyên tắc tổ chức tư pháp, cần chỉnh sửa bổ sung một số nguyên tắc cho phù hợp với sự phát triển đến Nhà nước Pháp quyền hiện nay.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 đã khắc phục được các nguyên tắc hạn chế thẩm quyền của tòa án trong việc tranh chấp pháp lý và thêm vào đó là nguyên tắc kiểm hiến bằng tư pháp. Tòa án sinh ra để làm bình đẳng và bình ổn xã hội bảo vệ quyền con người và giải quyết các tranh chấp trong cộng đồng ,bất kể một bên trong tranh chấp là công dân hay một định chế chính trị,

Nguyên tắc Quốc hội giám sát hoạt động tư pháp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Một số nước trên thế giới có sự phân chia quyền lực khác nhau nhưng hệ thống tư pháp luôn độc lập không bị ràng buộc, hạn chế về nguyên tắc nào, điều duy nhất mà thẩm phán làm là xét xử tuân theo pháp luật, vì hệ thống pháp luật các bộ luật, các điều luật do nhà nước xây dựng và dược đóng góp ý kiến của nhân dân.

Hai, Nhà nước Pháp quyền sự phân chia quyền lực trong bộ máy lãnh đạo khá đều nhà, khi đó vai trò của trò của chánh án nói chung và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nói riêng, không còn chi phối cá nhân được vì thực thì pháp luật mà pháp luật không cho phép họ làm sái trong xét xử.

Ba, các nhà hành pháp, cỗ vẫn pháp luất nên xem xét  cải cách hệ thống pháp luật, có thể bãi bỏ chức năng kiểm sát tư pháp của viện kiểm sát. Nếu chúng ta bãi bỏ chức năng kiểm sát tư pháp của viện kiểm sát thì việc khiếu lại tố tụng cấn phải thẩm tra lại. Trong tố tụng có tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn, chúng ta nên chuyển tố tụng tranh tụng của viện kiểm sát thành viện công tố thuộc hành pháp và tố tụng thẩm vấn  thì phân công  nhiệm vụ  giữa thẩm phán xét xử và thẩm phán công tố. Việc chuyển đổi hay phân công nhiệm vụ củ thể chủ yếu để phân tán quền lực và gắn trách nhiệm cá nhân công tố viên.

Bốn, trong thực tế còn rất ít các quốc gia còn tồn tại mô hình tổ chức tòa án theo cấp xét xử cũng như nguyên tắc Tòa án tối cao quản lý các tòa án địa phương, Trong thực tế tòa án tối cao trở thành cấp giám sát cao nhất của toàn bộ hệ thống tư pháp thì không thể quản lý như tòa án địa phương. Chúng ta muốn đi đến một Nhà nước Pháp quyền thì cầm sửa đổi một số nguyên tắc  như việc giám sát của Hội đồng nhân dân địa phương đối với tòa án địa phương để phụ hợp và gọn nhẹ nhưng hiệu qua  của hệ thống tòa an

Năm, chúng ta đáng theo nguyên tắc duy nhất tài phán, và cần thay đổi phương cách giải quyết các vụ án dân sự lẫn với các vụ án hình sự khi xét xử

Điều  quan trọng là đất nước ta  đi theo con đường xa hội chủ nghĩa  do sự lãnh đạo của Đảng. Các đường lối, chính sách của Đảng đã được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật. Để có hệ thống pháp luật được chặt chẽ cũng như phù hợp với công cuộc cải cách của đất nước hội nhập quốc tế cần nghiên cứu một số nguyên tắc tổ chức tư pháp như: Kiểm hiến bằng tư pháp và có tổ chức toà án hiến pháp; Duy nhất tài phán; Tư pháp độc lập; Tổ chức theo cấp xét xử để hoàn thiện tốt hơn vào công cuộc cải cách hệ thống tư pháp hiện nay. 

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành