Hợp đồng là một công cụ được chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng để ngăn chặn hết quyền đối với nhãn hiệu và những tác động của hết quyền đối với nhãn hiệu. Hết quyền đối với nhãn hiệu và hết quyền sở hữu trí tuệ trong trường hợp tồn tại thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng là vấn để phức tạp do giao thoa giữa ba lĩnh vực pháp luật: sở hữu trí tuệ, hợp đồng, cạnh tranh. Cũng như đối với sửa chữa hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ, pháp luật Việt Nam về hết quyền đối với nhãn hiệu trong trường hợp tồn tại thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng đã hình thành nhưng chưa đầy đủ. Các quy định hiện nay của pháp luật Việt Nam về vấn đề này tương thích với Hiệp định TRIPS nhưng chưa được hoàn thiện nếu so với pháp luật Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu.
1. Phù hợp với Hiệp định TRIPS
Pháp luật Việt Nam mới chỉ quy định về thỏa thuận giới hạn lãnh thổ trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp. Những giới hạn này có thể bị cấm hoặc không bị cấm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 144 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành và có thể bị khống chế bởi pháp luật cạnh tranh được quy định tại khoản 3 Điều 11 và khoản 3 Điều 13 Luật cạnh tranh năm 2004 trong mối liên hệ với khoản 2 Điều 28 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP) và pháp luật hợp đồng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 122 và Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005. Những quy định này hoàn toàn phù hợp với Hiệp định TRIPS, bởi vì, Hiệp định trao quyền cho các nước thành viên WTO xây dựng pháp luật cạnh tranh để kiểm soát, ngăn chặn những thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
2. Những khác biệt so với pháp luật Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu
Bên cạnh một số điểm tương đồng, rất nhiều khác biệt tồn tại giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu về hết quyền đối với nhãn hiệu trong trường hợp tồn tại thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng. Mặc dù pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể nhưng có thể hiểu rằng, pháp luật Việt Nam về vấn đề này tương tự như pháp luật Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu ở sự thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng không có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba và giới hạn trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp không chỉ được điều chỉnh bởi pháp luật sở hữu trí tuệ mà còn bởi pháp luật cạnh tranh và pháp luật hợp đồng. Bên cạnh đó, có bốn điểm khác biệt về vấn đề này giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu:
Thứ nhất, pháp luật Việt Nam không quy định về khả năng ngăn chặn hết quyền đối với nhãn hiệu của điều khoản giới hạn lãnh thổ trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, trong khi đó, vấn đề này rất rõ ràng theo pháp luật Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Theo pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Liên minh châu Âu, thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng không thể giúp chủ sở hữu nhãn hiệu ngăn chặn hết quyền đối với nhãn hiệu khi hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ đã được đưa ra thị trường bởi hoặc với sự cho phép đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu. Đáng lưu ý, trong vụ việc Quanta[1], Tòa án tối cao Hoa Kỳ phán quyết rằng thỏa thuận giới hạn sử dụng hàng hóa sau khi bán không tránh được hết quyền đối với hàng hóa đó. Tương tự, trong vụ việc Peak Holding[2], Tòa án Liên minh châu Âu khẳng định “giới hạn lãnh thổ không thể loại bỏ được hết quyền”[3]
Thứ hai, pháp luật Việt Nam không quy định vi phạm thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu và hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp có thể là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Trong khi đó, theo pháp luật Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu, giới hạn trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu có thể là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Theo pháp luật Liên minh châu Âu, vi phạm thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu có thể là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nếu những thỏa thuận này thuộc phạm vi Điều 8 mục 2 Chỉ thị về nhãn hiệu 2008/95/EC. Trong những trường hợp khác, vi phạm thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật hợp đồng chứ không phải pháp luật sở hữu trí tuệ. Tương tự như pháp luật Liên minh châu Âu, theo các phán quyết của Tòa án Hoa Kỳ, thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng có thể là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hoặc vi phạm hợp đồng. Chẳng hạn, “phân phối sản phẩm không tuân thủ điều kiện hạn chế về khách hàng có thể là hành vi xâm phạm nhãn hiệu”[4]. Vi phạm thỏa thuận về thời hạn, phạm vi bán lại hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ là hành vi vi phạm hợp đồng chứ không phải hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu[5].
Thứ ba, pháp luật Việt Nam không quy định về một vấn đề quan trọng, đó là nguyên tắc hết quyền đối với nhãn hiệu hay nguyên tắc tự do giao kết và thực hiện hợp đồng được ưu tiên áp dụng trong trường hợp vi phạm điều khoản giới hạn trong hợp đồng. Việt Nam nên bổ sung quy định về vấn đề này và có thể tham khảo pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Liên minh châu Âu. Theo pháp luật Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu, nguyên tắc hết quyền đối vối nhãn hiệu được ưu tiên áp dụng chứ không phải nguyên tắc tự do giao kết và thực hiện hợp đồng[6]. Trong trường hợp tồn tại điều khoản giới hạn trong hợp đồng liên quan đến đối tượng sở hữu trí tuệ, pháp luật sở hữu trí tuệ luôn được lựa chọn áp dụng trước tiên[7] “Tự do hợp đồng chiếm ưu thế hơn các bên, và hết quyền chiếm ưu thế trong những tình huống phát sinh thêm so với hợp đồng”[8].
Thứ tư, pháp luật Việt Nam không quy định mối quan hệ giữa pháp luật 8Ở hữu trí tuệ, pháp luật hợp đồng và pháp luật cạnh tranh khi điều chỉnh những thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng liên quan đến nhãn hiệu (mặc dù trong chừng mực nhất định, vấn đề này vẫn được hiểu trên cơ sỏ những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Trong khi đó, pháp luật Liên minh châu Âu và đặc biệt là pháp luật Hoa Kỳ quy định về mối quan hệ giữa ba lĩnh vực pháp luật này ỏ mức độ hoàn thiện rất cao.
Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã thiết lập “lăng kính Quanta”[9] nhằm giải quyết những vụ việc về giới hạn hợp đồng liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ chứa đựng mối quan hệ phức tạp giữa pháp luật sở hữu trí tuệ, pháp luật hợp đồng và pháp luật cạnh tranh. Công thức trong vụ việc Quanta[10] có thể áp dụng cho các đối tượng sở hữu trí tuệ và có giá trị tham khảo đôi với các nước khác. Theo đó, thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng có thể không được thừa nhận theo pháp luật sở hữu trí tuệ nhưng có thể được pháp luật hợp đồng chấp nhận. Tuy nhiên, thỏa thuận giới hạn hợp đồng có thể bị xử lý theo pháp luật cạnh tranh. Thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng có thể vi phạm pháp luật cạnh tranh trong hai trường hợp: hạn chế thương mại một cách bất hợp lý hoặc tạo ra độc quyền một cách bất hợp pháp.
Tương tự như pháp luật Hoa Kỳ, thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng liên quan đến nhãn hiệu cũng như các đối tượng sở hữu trí tuệ nói chung cũng được điều chỉnh bởi những nguyên tắc cạnh tranh của pháp luật Liên minh châu Âu. Mục tiêu thiết lập thị trường chung là sợi chỉ đỏ xuyên suốt pháp luật Liên minh châu Âu. Do đó, những thỏa thuận giới hạn hợp đồng phải tuân thủ nguyên tắc tự do lưu chuyển của hàng hóa, dịch vụ cũng như pháp luật cạnh tranh nhằm bảo đảm những giới hạn đó không hạn chế sự lưu chuyển của hàng hóa, dịch vụ cũng như không cản trở cạnh tranh trong Khu vực kinh tế châu Âu.
Nói tóm lại, có những khác biệt đáng kể giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu về hết quyền đối với nhãn hiệu trong trường hợp tồn tại thỏa thuận giới hạn trong hợp đồng. Pháp luật về hết quyền đốì với nhãn hiệu và hết quyền sở hữu trí tuệ đều là những vấn đề mới ở Việt Nam. Do đó, trong chừng mực nhất định, những hạn chế nêu trên của pháp luật Việt Nam hiện hành có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, các cơ quan lập pháp nên coi đây là vấn đề cần hoàn thiện và có thể tham khảo kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Liên V minh châu Âu trong quá trình hoàn thiện pháp luật.
Pháp luật Việt Nam về hết quyền đối với nhãn hiệu phù hợp với quy định vể hết quyền sở hữu trí tuệ trong Hiệp định TRIPS. Việt Nam đã sử dụng phương thức tiếp cận “đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu của Hiệp định TRIPS” trong thực thi các quy định của Hiệp định TRIPS về hết quyền sở hữu trí tuệ, đối với các vấn đề: điều kiện dẫn đến hết quyền đối với nhãn hiệu, hệ quả pháp lý của hết quyền đối với nhãn hiệu và sửa chữa hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng sử dụng các quy định tùy nghi của Hiệp định TRIPS cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và chính sách đặc biệt trong lựa chọn cơ chế hết quyền quốc tế cho các đối tượng sỏở hữu công nghiệp bao gồm nhãn hiệu. Đây là kết quả của nhiều hoạt động Việt Nam đã tích cực thực hiện trong một thời gian dài nhằm đổi mới hệ thông pháp luật sở hữu trí tuệ.[11]
Bên cạnh những điểm chung, còn tồn tại những khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ cũng như pháp luật Liên minh châu Âu về hết quyền đối vối nhãn hiệu. Pháp luật và thực tiễn Việt Nam về hết quyền đốì vối nhãn hiệu còn non trẻ. Pháp luật và thực tiễn của Hoa Kỳ cũng như Liên minh châu Âu chỉ ra rằng: hết quyền đối với nhãn hiệu và hết quyền sở hữu trí tuệ nói chung không chỉ là quyền đối vối sản phẩm mang nhãn hiệu được bảo hộ không còn; quan trọng hơn, hết quyền gắn liền với nhiều vấn đề thương mại khác và những vấn đề thương mại này chỉ có thể giải quyết được nếu dựa trên cơ sở thuyết hết quyền sở hữu trí tuệ. ở Việt Nam, hiện nay, các vụ việc liên quan đến hết quyền đối vói nhãn hiệu bộc lộ những phức tạp. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam về hết quyền đối với nhãn hiệu mới chỉ dừng lại ở điều chỉnh những vấn đề cơ bản và những quy định này chưa hoàn thiện. Những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam không điều chỉnh hết những quan hệ liên quan đến hết quyền đối với nhãn hiệu đã phát sinh trong thực tiễn. Những hạn chế của pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về hết quyền đối với nhãn hiệu cần phải được hoàn thiện. Trong quá trình hoàn thiện pháp luật về hết quyền đối với nhãn hiệu, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu nên được tiếp thu một cách chọn lọc và hợp lý.
Cuối cùng, nghiên cứu so sánh trên đây cho thấy: cách tiếp cận của pháp luật Việt Nam gần hơn với cách tiếp cận của pháp luật Liên minh châu Âu một số điểm tương đồng và một số điểm giống nhau. Chẳng hạn quy định: “đưa ra thị trường” được sử dụng trong văn bản pháp luật[12]; tính hợp pháp của hành vi sửa chữa hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ được thừa nhận thông qua quy định về hệ quả pháp lý của hết quyền đôi với nhãn hiệu[13]; đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp không liên quan đến hiệu lực pháp lý của thỏa thuận giới hạn hợp đồng đối với bên thứ ba[14].
Toàn bộ phần nghiên cứu so sánh về hết quyền đối với nhãn hiệu trong pháp luật và thực tiễn Việt Nam với Hiệp định TRIPS, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu.
[1],258Quanta Computer, inc. V. LG Electronics, Inc., 128 s. Ct. 2109(2008), đoạn 2122.
[2] Case C-16/03, Peak Holding AB V. Axolin-Elinor AB, formerly Handelskompaniet Factory Outlet i Lỏddekởpinge AB, [2004] ECR1-11313,cấc đoạn 53-55.
[3] Case C-16/03, Peak Holding AB V. Axolin-Elinor AB, formerly Handelskompaniet Factory Outlet i Lỏddekởpinge AB, [2004] ECR1-11313,các đoạn 53-55.
[4] Polymer Technology Corp. V. Mimran, 97 F. 2d 58 (2d Cir. 1992), after remand, 37 F.3d 74 (2d Cừ. 1994).
[5] The Report of the us Group answers the questions of AIPPI on Exhaustion of IPRs in cases of recycling and repair of goods, <http://www.aippi-us.org/images/Q205_USA.pdf>, tr. 8.
[6] Chương III mục 1.5.1
[7] Keeler V. Standard Folding Bed, 157 Ư.s. 659 (1985).
[8] The Report of the National Group of Sweden answered the questions of AIPPI on Exhaustion of IPRs ỉn cases of recycling and repair of goods, p. 6, <http://www.sfir.se/uploads/aippi/Q205 SE.pdf>.
[9] Quanta Computer, Inc. V. LG Electronics, Inc., 128 s. Ct. 2109 (2008). Từ "Lăng kính Quanta" (trong tiếng Anh là "Quanta Prism") được Nguyễn Thanh Tú sử dụng trong luận án tiến sĩ luật học. Xem: Nguyên Thanh Tu, Competition Law in Technology Transfer under the TRIPS Agreement: Implỉcations for Developing Countries, doctoral dissertation, Lund Ưniversity, Sweden, 2009, tr. 81
[10] Quanta Computer, Inc. V. LG Electronics, Inc., 128 s. Ct. 2109 (2008
[11] Nguyên Nhu Quynh, The Law on Intellectual Property: An important mỉlestone in the development of Vietnam's intellectual property legal System, IP Community, No. 10, 2007, tr. 85-87.
[12] Việt Nam: Điểm b khoản 2 Điều 125 Luật sỏ hữu trí tuệ hiện hành; Liên minh châu Âu: Điều 7 Chỉ thị 2008/95/EC (và Điều 13 Quy định (EC) 207/2009).
[13] Sđd.
[14] Việt Nam: Khoản 2 Điều 148 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành, các mục 48(2) và 48(3) Thông tư sô' 01/20Ò7/TT-BKHCN ngày 14-02-2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ hưống dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hưóng dẫn thi hành một sô' điều của Luật sở hữu trí tuệ vể sở hữu công nghiệp; Liên minh châu Âu; Điều 23(1) Quy định (EC) 207/2009