Trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân thì vai trò của lao động, việc làm ở khu vực nông thôn ngày càng được nhà nước quan tâm hơn. Điều này có ý nghĩa trong sự điều chỉnh chiến lược nhằm phát triển kinh tế ở nước ta trong những năm vừa qua. Việc thay đổi về cơ chế quản lý tạo động lực giải phóng sức sản xuất, ứng dụng có hiệu quả hơn những thành tựu của tiến bộ kỹ thuật công nghệ, sự hỗ trợ của Nhà nước và việc tổ chức quan hệ kinh tế kỹ thuật với các ngành kinh tế khác. Sự ra đời cũng như bổ sung, sửa đổi của Luật đất đai trong những năm qua đã gắn bó hơn trách nhiệm và quyền lợi với ruộng đất mà nông dân được giao quyền sử dụng lâu dài. Từ đây vấn đề lao động, việc làm ở khu vực nông thôn cần được giải quyết một cách nhanh chóng, kịp thời nhằm khắc phục lỗ hổng trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn bên cạnh việc đô thị hóa nông thôn.
Khái niệm công nghiệp hoá-hiện đại hoá được thể hiện rất rõ trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII: “Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dùa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đó là một quá trình lâu dài”.
Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá là một tất yếu và nhiệm vụ này đã được đặt ra từ năm 1960. Đối với Việt Nam, công nghiệp hoá ở những năm 90 khác căn bản so với công nghiệp hoá ở những năm 60 trên các mặt: công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá; công nghiệp hoá tiến hành trong điều kiện phát triển nền kinh tế mở với các nước thuộc các chế độ chính trị khác nhau, đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ đối ngoại; công nghiệp hoá-hiện đại hoá được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam hiện nay còn là một nước dựa trên sản xuất nông nghiệp là chủ yếu (sản xuất nông nghiệp chiếm 18,39% tổng sản phẩm trong nước; 70% dân số ở nông thôn), do đó để thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước thì công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn chiếm vị trí quan trọng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: “Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá-hiện đại hoá trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là: đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”.
Công nghiệp hoá nông thôn là một quá trình phát triển kinh tế xã hội mà nội dung chủ yếu của nó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội ở nông thôn gắn liền với đổi mới công nghệ theo hướng công nghiệp và dịch vô - là những ngành kinh tế ngày càng chiếm vị trí quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn trong kinh tế nông thôn.
Hiện đại hoá nông thôn có nghĩa là nói về tiến bộ kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất và văn minh tiến bộ trong đời sống vật chất tinh thần cũng như lối sống ở nông thôn. Công nghệ tiến bộ hơn về chất và công nghệ đó có trình độ hiện đại hơn so với công nghệ hiện có, đời sống và lối sống được nâng cao và văn minh hơn thì đó chính là quá trình hiện đại hoá. Với ý nghĩa như vậy: công nghiệp hoá sẽ gắn liền với hiện đại hoá và hiện đại hoá chỉ tiến hành thực hiện được khi tiến hành công nghiệp hoá.
Với mục tiêu của công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở nông thôn nhằm giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn, nâng cao thu nhập và mức sống cho dân cư nông thôn; đa dạng hoá nền kinh tế nông thôn, đa dạng hoá ngành nghề lao động ở nông thôn trên cơ sở thị trườngạo ra ngành nghề mới; sử dụng lao động dư thừa tại chổ trên địa bàn nông thôn, vừa là ruộng vừa làm nghề khác như công nghiệp và dịch vụ nông thôn hay phương thức làm nghề khác như làm ở các doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ nông thôn ở làng xã, thị trấn huyện lỵ (nhưng vẫn sinh sống ở làng) đi đôi với hiện đại hoá nông nghiệp và đô thị hoá nông thôn.
2. Vai trò của đại biểu dân cử trong giải quyết vấn đề lao động việc làm ở nông thôn
2.1. Về mặt kinh tế
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại không ít khó khăn cản trở sự phát triển của nền kinh tế mà thất nghiệp được xem là một trong những khó khăn lớn nhất.
Đại biểu dân cử với vai trò là người tham gia xây dựng và ban hành chính sách đối với vấn đề giải quyết thất nghiệp ngày càng bức xúc hơn khi đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Vì vậy, việc giải quyết việc làm cho lao động trong cả nước nói chung và ở nông thôn Việt Nam nói riêng có ý nghĩa to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để thấy rõ ý nghĩa về mặt kinh tế của vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn các đại biểu cần xem xét trên hai mặt của lao động: đó là chi phí và lợi ích.
Để có sản xuất cần phải có sự kết hợp của rất nhiều nhân tố như vốn, tài nguyên, lao động, khoa học công nghệ... Như vậy, trong quá trình xây dựng và han hành chính sách đại biểu cân nhắn về mặt chi phí khi giải quyết việc làm cho người lao động thì số người tham gia vào quá trình sản xuất sẽ tăng lên, việc sử dụng lao động trong sản xuất đạt hiệu quả hơn. Mặt khác, việc giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn sẽ khai thác được tối đa những nguồn lực quan trọng đang còn tiềm ẩn trong khu vực kinh tế nông thôn như tài nguyên, vốn, ngành nghề...thông qua lao động của con người, đây là những vấn đề cần có sự giám sát của đại biểu dân cử cũng như cơ quan dân cử.
Thực tế cho thấy những tiềm năng trên ở nông thôn còn rất lớn cả về mặt nhiên liệu, năng lượng, khoáng sản, cảnh quan thiên nhiên, vốn nhàn rỗi trong nông thôn và các ngành nghề truyền thống... Tuy nhiên, tất cả chỉ là tiềm năng nếu con người không biết sử dụng sức lao động để khai thác, cải biến chúng phục vụ cho mục đích của con người. Khi người lao động có việc làm sẽ mang lại thu nhập cho bản thân họ và từ đó tạo tích luỹ, Nhà nước không những không phải chi trợ cấp cho những người nghèo không có việc làm mà khi giải quyết việc làm cho họ, họ có thể mang lại tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Tăng tích luỹ sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, thu hót thêm nhiều lao động. Vì vậy, khi tiếp xúc cử tri việc tìm hiểu quá trình thực hiện chính sách ở các địa phương đối là rất quan trọng trong việc xây dựng, ban hành và điều chỉnh các chính sách đang được thực hiện nhằm hỗ trợ người dân ở khu vực nông thôn một cách hiệu quả nhất.
Về mặt lợi ích, khi người lao động có thu nhập sẽ làm tăng sức mua của khu vực nông nghiệp nông thôn trong tổng sức mua của xã hội. Theo thống kê cho thấy lao động nông thôn chiếm khoảng 76% tổng số lao động cả nước và nếu tính theo đóng góp GDP thì sức mua của khu vực nông nghiệp nông thôn ước tính chiếm hơn 40% tổng sức mua của toàn xã hội.
Việc tăng tiêu dùng có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam hiện nay. Bởi vì Việt Nam là một thị trường tương đối lớn mà đặc biệt là khu vực nông thôn, dân số tập trung cao (80% dân số) nhưng chưa khai thác được nhiều. Nếu mức tiêu dùng của khu vực này tăng có tác động rất lớn đến sự phát triển của các ngành sản xuất trong nước, đặc biệt là những ngành sản xuất phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Như vậy, việc giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn vừa có tác dụng làm tăng tích luỹ, vừa có tác dụng làm tăng tiêu dùng. Tăng tích luỹ sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, tức là tác động đến tổng cung; tăng tiêu dùng sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng lên kích thích sự phát triển của sản xuất từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế.
2.2. Về mặt xã hội
Bên cạnh những cản trở gây ra cho nền kinh tế, thất nghiệp đồng thời là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Số lao động tăng thêm khoảng trên 1 triệu người/năm, số người thất nghiệp hoàn toàn chưa được giải quyết. Trong quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá, do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sắp xếp lại các doanh nghiệp, số lao động dôi ra phải tìm việc làm mới khoảng 3 triệu người.
Vấn đề tệ nạn xã hội nảy sinh từ nhiều nguyên nhân, song một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là do thất nghiệp. Bởi vì trong lực lượng lao động, tầng líp thanh niên chiếm một tỷ lệ cao mà đối tượng này dễ bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh nên dễ dàng sa đà vào các tệ nạn xã hội, làm rối loạn trật tự an ninh xã hội, tha hoá nhân phẩm người lao động, làm cản trở sự phát triển của đất nước.
Mặt khác, trong thời gian qua với sự dư thừa lao động quá nhiều ở nông thôn đã tạo ra sức ép di dân rất lớn từ nông thôn ra thành thị và giữa các vùng không kiểm soát được. Đặc điểm của lao động di cư thường là lao động trẻ, có sức khoẻ nhưng trình độ chuyên môn thấp. Việc di dân này đã bổ sung một lượng đáng kể cho lao động ở các đô thị, góp phần tích cực vào việc sử dụng đầy đủ và hiệu quả hơn nguồn lao động nông thôn, đồng thời góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho bản thân người lao động và các thành viên trong gia đình họ ở nông thôn.
Song bên cạnh những mặt tích cực đó cũng tạo nên sức ép quá lớn cho đô thị về nhà cửa, điện nước sinh hoạt, y tế, thậm chí gây ra cả những rối loạn về mặt xã hội. Do đó nếu giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ngay tại chổ sẽ làm giảm đáng kể sức ép di dân tự do như tình trạng hiện nay.
Hơn nữa khi người lao động ở nông thôn được giải quyết việc làm sẽ làm cho thu nhập tăng lên, trong chõng mực nào đó sẽ nâng cao hiểu biết của người dân. Bởi vì khi thu nhập tăng thì việc chi cho giáo dục đào tạo, cho đời sống tính thần sẽ cao hơn. Họ sẽ nhận thức được về nguyên nhân, hậu quả của việc gia tăng dân số, từ đó có ý thức làm giảm tốc độ này. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thất nghiệp như hiện nay.
Bản chất của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam được đặc trưng bởi hai yếu tố quan trọng là tính hiệu quả và tính công bằng. Do vây, trong số những vấn đề kinh tế đáng quan tâm thì thu nhập của nông dân là hết sức quan trọng có liên quan đến cả hai đặc trưng nêu trên và là một vấn đề lớn ở Việt Nam. Vấn đề thu nhập của người nông dân có liên quan đến khoảng 70% dân cư sống ở nông thôn, mà để nâng cao thu nhập của người nông dân thì chỉ có biện pháp là giải quyết việc làm và nâng cao năng suất lao động của họ.
Với vai trò của mình, đại biểu dân cử tham gia vào quá trình xây dựng, hoạch định chính sách cụ thể cho địa phương cũng như trên cả nước cần có những chiến lược cụ thể, chính xác trong việc giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn là rất quan trọng bởi nếu có chính sách giải quyết cho khu vực này ngày càng giàu mạnh thì sẽ làm cho quá trình đổi mới kinh tế của chúng ta càng thêm bền vững.