Thứ năm, 15 Tháng 6 2017 08:30

Trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia - khái niệm và đặc điểm

(Ảnh minh họa) (Ảnh minh họa)

Trách nhiệm pháp lý là một trong những nội dung quan trọng đối với mọi hệ thống pháp luật. Để bảo đảm sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, mỗi hệ thống pháp luật đều có những nguyên tắc, quy phạm nhằm xác định khi nào tồn tại một hành vi vi phạm pháp luật và những hệ quả pháp lý mà hành vi vi phạm đó mang lại.

Trong hệ thống pháp luật quốc gia, tương ứng với những ngành (lĩnh vực) pháp luật sẽ tồn tại những dạng trách nhiệm pháp lý khác nhau, chẳng hạn trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính... Tổng hợp các nguyên tắc, quy phạm pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong một ngành (lĩnh vực) pháp luật cụ thể tạo thành chế định trách nhiệm pháp lý của ngành (lĩnh vực) pháp luật đó.

Trong khoa học pháp lý quốc tế, thuật ngữ trách nhiệm pháp lý quốc tế có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau:

- Dưới góc độ là một chế định pháp luật quốc tế, trách nhiệm pháp lý quốc tế là tổng thể những nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế xác định sự tồn tại trách nhiệm pháp lý của một chủ thể luật quốc tế, nội dung cũng như cơ chế thực hiện trách nhiệm pháp lý đó.

- Dưới góc độ là một quan hệ pháp luật quốc tế, trách nhiệm pháp lý quốc tế là quan hệ phát sinh giữa một bên là chủ thể luật quốc tế thực hiện các hành vi gây thiệt hại cho một bên là chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm hại do những hành vi đó.

- Dưới góc độ là một dạng trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm pháp lý quốc tế là những hệ quả pháp lý quốc tế phát sinh từ hành vi của một chủ thể của luật quốc tế, gây thiệt hại cho một chủ thể khác.

Thực tiễn cho thấy, trách nhiệm pháp lý quốc tế là "công cụ pháp lý" quan trọng để bảo đảm thực thi luật quốc tế, khôi phục và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật quốc tế của một chủ thể khác gây ra. Đây đồng thời là cơ sở góp phần giải quyết tranh chấp cũng như các mối quan hệ phát sinh giữa các chủ thể khi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật quốc tế.

Các đặc điểm của trách nhiệm pháp lý quốc tế, dù dưới góc độ là một dạng trách nhiệm pháp lý hay dưới góc độ là một chế định của luật quốc tế, đều gắn liền với các đặc điểm của luật quốc tế nói chung. Đặc biệt, chúng có thể được nhìn nhận rõ ràng hơn, nếu đặt trách nhiệm pháp lý quốc tế trong mối liên hệ so sánh với các dạng trách nhiệm pháp lý tồn tại trong hệ thống pháp luật quốc gia.

Với tính chất là một chế định của luật quốc tế, trách nhiệm pháp lý quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia và giữa quốc gia với các chủ thể khác của luật quốc tế, đặc biệt là các tổ chức quốc tế liên chính phủ (ví dụ: Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giối, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á...). Vì vậy, trách nhiệm pháp lý quốc tế không đặt ra đối với các cá nhân và tổ chức. Trong một số trường hợp, cá nhân và tổ chức có thể tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế, được hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ, nhưng không thể tự thiết lập và không có thẩm quyền đương nhiên trong việc thực hiện những quyền đó mà trên cơ sở quyền và nghĩa vụ pháp lý mà các quốc gia thỏa thuận dành cho nhau. Do đó, hành vi vi phạm luật quốc tế của cá nhân, tổ chức không đương nhiên và không trực tiếp làm phát sinh trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia.

Trách nhiệm pháp lý quốc tế được thể hiện dưới hình thức trách nhiệm vật chất và trách nhiệm phi vật chất. Tuy nhiên, trách nhiệm pháp lý quốc tế mang tính bồi hoàn hơn là tính trừng phạt. Tính chất bồi hoàn của trách nhiệm pháp lý quốc tế xuất phát từ đặc trưng về cơ chế xây dựng và thực thi luật quốc tế. Về bản chất, các nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế được xây dựng trước hết trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia là chủ thể cơ bản của luật quốc tế. Quá trình thỏa thuận này phản ánh tương quan lực lượng và tương quan lợi ích của các quốc gia. Vì vậy, vấn đề thực thi luật quốc tế không phải được bảo đảm bởi một cơ quan quyền lực siêu quốc gia mà do chính các chủ thể của luật quốc tế thực hiện. Đó là quá trình các chủ thể này áp dụng những cơ chế hợp pháp, phù hợp để bảo đảm các nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế được thi hành và tôn trọng đầy đủ trong đời sống quốc tế.

Trong khuôn khổ cơ chế chung về xây dựng và thực thi luật quốc tế, trách nhiệm pháp lý quốc tế được bảo đảm bởi chính các chủ thể của luật quốc tế; do đó, không tồn tại một thiết chế siêu quốc gia chuyên trách để áp đặt các biện pháp trừng phạt trong trường hợp một chủ thể không tôn trọng việc thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế.

Những đặc điểm trên cho phép phân biệt trách nhiệm pháp lý quốc tế với các dạng trách nhiệm pháp lý tồn tại trong pháp luật quốc gia. Đối với trách nhiệm pháp lý trong pháp luật quốc gia, đặc biệt là trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự thì tính trấn áp, trừng phạt lại là một trong những đặc điểm nổi bật. Trong trường hợp này, vi phạm pháp luật được hiểu là vi phạm đến những giá trị, lợi ích chung của cộng đồng được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, mối quan hệ trách nhiệm pháp lý thường là mối quan hệ giữa một bên là chủ thể vi phạm pháp luật và một bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền đại diện cho quyền lực và lợi ích chung. Mối quan hệ này được đặc trưng bởi tính chất mệnh lệnh, quyền uy áp đặt từ phía cơ quan nhà nước. Đối với các quan hệ có tính chất dân sự, được xác lập trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, tự do thoả thuận của các chủ thể và hướng tới các lợi ích cá nhân, thì trách nhiệm pháp lý phát sinh chỉ liên quan đến các bên chủ thể tham gia quan hệ và nghiêng về tính bồi hoàn, về điểm này, trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực dân sự trong pháp luật quốc gia có những điểm tương đồng với trách nhiệm pháp lý quốc tế.

Khác với các chế định trách nhiệm pháp lý trong pháp luật quốc gia, chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế có quá trình phát triển tương đối chậm. Điều này được lý giải bởi hai nguyên nhân cơ bản:

Thứ nhất, trong trật tự pháp lý quốc tế, không tồn tại một thiết chế quyền lực siêu quốc gia, đóng vai trò của cơ quan lập pháp. Các nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyên, bình đẳng giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế. Vì vậy, việc xác định nội dung và cơ chế bảo đảm thực thi trách nhiệm pháp lý quốc tế luôn được xem xét trong Mối quan hệ với chủ quyền quốc gia và được các quốc gia cân nhắc kỹ lưỡng, thận trọng.

Thứ hai, trách nhiệm pháp lý quốc tế mang nhiều đặc điểm của "luật hình thức", xác định trách nhiệm quốc gia trong trường hợp thực hiện hành vi vi phạm luật quốc tế. Đó có thể là hành vi vi phạm trong luật điều ước quốc tế, luật ngoại giao lãnh sự, luật biển quốc tế... hay một ngành luật khác trong hệ thống pháp luật quốc tế. Nói cách khác, trách nhiệm pháp lý quốc tế liên quan đến tất cả các lĩnh vực của luật quốc tế. Vì vậy, việc xây dựng được một chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế thống nhất, đầy đủ trong luật quốc tế đòi hỏi các quốc gia phải vượt qua rất nhiều những rào cản, khác biệt về chính trị, pháp lý, những mối quan tâm về kinh tế, xã hội...; do đó, quá trình pháp điển hóa diễn ra tương đối chậm và trong một khoảng thời gian tương đối dài.

Quá trình pháp điển hóa chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế có thể được chia làm hai thời kỳ: thời kỳ tồn tại Hội quốc liên và thời kỳ kể từ khi thành lập Liên hợp quốc đến nay:

- Thời kỳ Hội quốc liên (1920-1945):

Vấn đề pháp điển hóa chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế được đặt ra khá sớm dưới thời Hội quốc liên. Hội quốc liên đã thành lập một Ủy ban đặc trách, có nhiệm vụ xác định và chuẩn bị các nội dung để ký kết một điều ước quốc tế về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia. Ủy ban này cũng đã hoàn thành những báo cáo quan trọng về vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với nhũng thiệt hại gây ra cho người và tài sản của quốc gia khác.

Một hội nghị pháp điển hóa luật quốc tế về vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia được tổ chức vào mùa xuân năm 1930. Tuy nhiên, tại Hội nghị, các quốc gia đã thất bại trong việc ký kết một điều ước quốc tế về vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia.

- Thời kỳ kể từ khi có Liên hợp quốc (1945 đến nay):

Vào năm 1948, không lâu sau khi Liên hợp quốc đi vào hoạt động, do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề pháp điển hóa luật quốc tế, Đại hội đồng Liên hợp quốc quyết định thành lập Uỷ ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc, có nhiệm vụ thúc đẩy quá trình pháp điển hóa và phát triển luật quốc tế. Vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đã được đưa vào chương trình nghị sự của uỷ ban pháp luật quốc tế từ năm 1949.

Đến năm 1996, Uỷ ban thông qua lần thứ nhất bản Dự thảo các quy định về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với các hành vi trái pháp luật quốc tế. Bản Dự thảo này bao gồm ba phần: phần thứ nhất bao gồm các quy định về hành vi trái pháp luật quốc tế của quốc gia; phần thứ hai bao gồm các quy định về nội dung trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia; phần thứ ba đề cập vấn đề giải quyết các tranh chấp trong giải thích và áp dụng các quy định của Dự thảo.

Bản Dự thảo được đánh giá là thành công lớn của uỷ ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc trong việc pháp điển hóa chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia: Một mặt, bản Dự thảo đã thể hiện được phần lớn các quy định pháp luật quốc tế hiện có đặc biệt là các quy định tập quán, cũng như những quan điểm pháp lý được thừa nhận rộng rãi trong học thuyết và thực tiễn xét xử quốc tế về vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia. Mặt khác, kể từ khi được công bố, bản Dự thảo đã trở thành một nguồn tài liệu được tham khảo, trích dẫn phổ biến bởi các học giả, thậm chí bởi các cơ quan trọng tài, toà án quốc tế trong quá trình giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia. Tuy nhiên, bản Dự thảo cũng bị đánh giá là còn nhiều thiếu sót, bất cập, gây tranh cãi, đặc biệt ở ba vấn để: thứ nhất, Dự thảo còn nhiều quy định được thiết kế dài dòng, phức tạp, quá thiên về tính lý thuyết, đặc biệt là các quy định liên quan đến khái niệm “quốc gia bị hại”; thứ hai, việc Dự thảo sử dụng khái niệm “tội ác quốc tế" và sự phân biệt giữa những hành vi vi phạm pháp luật quốc tế thông thường với những hành vi vi phạm bị coi là “tội ác quốc tế"; thứ ba, vấn đề đưa các quy định về giải quyết tranh chấp vào trong Dự thảo.

Từ năm 1998, bản Dự thảo tiếp tục được uỷ ban pháp luật quốc tế nghiên cứu và hoàn thiện. Năm 2000, Ủy ban pháp luật quốc tế đã thông qua bản Dự thảo lần thứ hai, giải quyết được hầu hết những vướng mắc ở bản Dự thảo lần thứ nhất. Ngày 12-12-2001, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết GA.Res 56/83 ghi nhận kết quả làm việc của uỷ ban pháp luật quốc tế, đưa bản Dự thảo thành Phụ lục của Nghị quyết. Nghị quyết của Đại hội đồng cũng yêu cầu sự quan tâm, phản hồi của các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đối với nội dung bản Dự thảo, đồng thời để ngỏ khả năng triệu tập một hội nghị quốc tế để chính thức ký kết điều ước quốc tế về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia trên cơ sở bản Dự thảo của uỷ ban pháp luật quốc tế.

Cho đến nay, bản Dự thảo các quy định về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với các hành vi trái pháp luật quốc tế tiếp tục nhận được những phản hồi từ các quốc gia và việc chuyển hóa nó thành một văn bản pháp lý quốc tế có giá trị ràng buộc vẫn chưa trở thành hiện thực.

Như vậy, có thể thấy rằng, việc xác định trách nhiệm pháp lý quốc gia đã được quan tâm và thực hiện từ rất lâu. Cùng với xu thế phát triển hội nhập toàn cầu, việc xác định trách nhiệm pháp lý của các quốc gia là vô cùng cần thiết tạo hành lang pháp lý bình đẳng giữa các quốc gia với nhau trong hoạt động giao thương và hợp tác phát triển.

Sửa đổi lần cuối Thứ ba, 31 Tháng 10 2017 08:35

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành