Trong những năm qua, ngành giáo dục nước ta đã quan tâm nhiều đến việc xây dựng mô hình giáo dục. Đó là mô hình mang tính dự báo theo một chiến lược phát triển giáo dục quốc gia. Nó đưa ra những quan điểm, nội dung định hướng về những vấn đề, sự kiện được quan sát trong tương lai và do đó, còn được gọi là mô hình tiên nghiệm. Việc thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi phải xác định những quan niệm định hướng đúng đắn.
1. Sự cần thiết của việc xây dựng mô hình phát triển giáo dục mới.
Khi nhìn lại các cuộc cải cách khác nhau trong thế kỷ 20, nhiều chuyên gia đã thấy cần phải tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới, phải thay đổi các hệ thống giáo dục. Nói khác đi, những năm đầu thế kỷ 21 đòi hỏi phải tìm kiếm một mô hình giáo dục vì những lí do sau đây:
Thứ nhất, sự phát triển khoa học - kĩ thuật đã tạo ra những thay đổi trong hoạt động nghề nghiệp và cuộc sống thường ngày. Thế hệ trẻ phải có trình độ cao hơn so với những gì họ được các trường phổ thông, các trường nghề và các trường đại học truyền thụ từ trước đến nay.
Thứ hai, học vấn là quyền lực quốc gia quan trọng nhất trong cuộc cạnh tranh kinh tế và văn hóa toàn cầu. Học vấn ở nhà trường phải được lựa chọn trong bản thân nền văn hóa của mỗi dân tộc và từ những thành quả phát triển khoa học của nhân loại. Nhiều chương trình, tài liệu, sách giáo khoa hiện nay chưa mang tính cơ bản, hiện đại và chưa được thành cái vốn riêng, trí lực của từng người học.
Thứ ba, sự lớn mạnh của quốc gia trong sự phụ thuộc chung về kinh tế, chính trị , văn hóa vào các nước trong khối ASEAN và nhiều nước khác trên thế giới đòi hỏi hệ thống giáo dục phải có sự tiếp cận mới và nâng trình độ cao hơn.
Thứ 4, sức sản xuất và tính hiệu quả của các hệ thống giáo dục ở nhiều nước, trong đó có nước ta còn thấp. Không ít học sinh, sinh viên ra trường chưa thực sự có “tay nghề”, chưa có đủ năng lực đáp ứng những yêu cầu của công việc được giao.
Mô hình dự báo phát triển giáo dục 10-20 năm tới cần phải hàm chứa những đặc điểm, những bộ phận hợp thành và quan hệ của nó. Vì thế, những nội dung tiếp theo sẽ đề cập tới từng vấn đề cơ bản này.
2. Vấn đề quy mô phát triển giáo dục
Mọi chiến lược giáo dục đều phải đề cập tới quy mô phát triển.
Đây là vấn đề liên quan mật thiết tới mục tiêu, hệ thống giáo dục quốc dân và việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên.
Một, chúng ta phấn đấu phổ cập giáo dục tiểu học và xóa nạn mù chữ trong toàn quốc đến năm 2000. Như vậy, trong vòng 20 năm đầu thế kỉ 21, nhiệm vụ của ngành giáo dục nước ta là tiến tới phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 và phổ cập trung học (với những loại hình và tỉ lệ khác nhau như trung học phổ thông chiếm đa số trung học chuyên nghiệp, bổ túc văn hóa...).
Hai, tính chất mở của hệ thống giáo dục, thị trường lao động, công tác xã hội hoá đòi hỏi phải có những thay đổi về quy mô giáo dục có liên quan đến các mặt sau đây:
- Xác định lại tỉ lệ cơ cấu của các loại trường công lập, bán công, dân lập, tư thục theo hướng tạo thêm điều kiện và khả năng học tập, đảm bảo số lượng và chất lượng, đảm bảo giá trị pháp lí của các văn bằng, chứng chỉ tốt nghiệp;
- Coi trọng việc đào tạo đội ngũ lao động có hàm lượng trí tuệ ngày càng cao (như công nhân toàn năng hay công nhân lành nghề diện rộng, kĩ thuật viên cao cấp hay kĩ thuật viên công nghệ).
Ba, sự phát triển quy mô giáo dục thực hiện đào tạo nhân lực diễn ra theo kế hoạch và cơ chế thị trường. Cụ thể, đó là việc hướng giáo dục vào thị trường lao động sau này của những người tốt nghiệp. Điều đó đòi hỏi phải có sự hợp tác trước hết của:
- Giới kinh tế;
- Các trường đại học;
- Các nhà sản xuất tài liệu, thiết bị dạy học;
- Các cơ sở phát thanh và vô tuyến truyền hình.
3. Hệ thống giáo dục quốc dân
Trong lịch sử, những cơ sở dạy học và giáo dục chuyên biệt, khác với cuộc sống thường ngày trong mọi nền văn hóa phát triển, đã xuất hiện từ lâu, ví dụ ở Hy Lạp cổ đại là vào khoảng cách đây hơn 3000 năm. Từ đó đến nay, hệ thống giáo dục đã trải qua nhiều cuộc “cách mạng” (Talcott Parsons).
Hệ thống giáo dục quốc dân là khái niệm dùng để chỉ sự xây dựng và phân chia tất cả các cơ sở giáo dục của một quốc gia. Hệ thống này được hình thành xuất phát từ bốn căn cứ sau đây :
Thứ nhất, dựa trên triết lí quốc gia về tính chất, vị trí và vai trò của giáo dục;
Thứ hai, dựa trên thực trạng và khả năng phát triển của một nước;
Thứ ba, căn cứ vào nhu cầu đào tạo của nhân dân;
Thứ tư, dựa vào những xu hướng cơ cấu tiến bộ và hợp lý trong nền giáo dục ở các xã hội mở (Open Societies).
Việc xây dựng một hệ thống giáo dục mở diễn ra theo những nguyên tắc nhất định, phản ánh sự phát triển tư duy giáo dục ở trong và ngoài nước cho đến bây giờ. Cụ thể như:
a/ Bảo đảm giáo dục cho mọi người và học tập thường xuyên, học tập suốt đời.
b/ Xây dựng hệ thống hoàn chỉnh theo nghĩa có đủ các bậc học và cấp học trong sự liên thông với nhau và phân luồng đào tạo;
c/ Đa dạng hóa các hình thức học tập và tổ chức trường lớp;
d/ Hợp tác đào tạo và bồi dưỡng với các cơ sở giáo dục phù hợp ở nước ngoài.
4. Nhà trường
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhà trường là một đơn vị cấu trúc cơ sở hay một tiểu hệ thống. Đây là nơi chủ yếu thực hiện chức năng. nhiệm vụ của giáo dục thể hiện vai trò chủ đạo so với các hình thức tổ chức giáo dục khác.
Về cấu trúc bên ngoài, nhà trường được tổ chức đa dạng, tuỳ thuộc vào:
a/ Hình thức quản của Nhà nước, tổ chức xã hội hoặc tư nhân;
b/ Trình độ học vấn theo các cấp, bậc học từ thấp đến cao
c/ Sự phân luồng đào tạo;
d/ Mối quan hệ giữa các bộ phận bên trong hợp thành hệ thống.
Về cấu trúc bên trong, hệ thống nhà trường và từng loại trường được thiết lập và phân độ theo các mặt sau:
- Các quyền hạn và nghĩa vụ học tập của trẻ em và thanh niên trong tuổi học đường;
- Hình thức và mức độ quản lí bên trong và bên ngoài của nhà trường;
- Các nguyên tắc thành lập các nhóm HS;
- Trình độ, vai trò của các giáo viên và sự bố trí, sử dụng họ;
- Nội dung, phương pháp của các quá trình dạy học theo thời gian và không gian;
- Cách thức, nội dung và chuẩn mực đánh giá, thi, tuyển.
Hiện nay, khái niệm nhà trước đã được mở rộng. Thông qua các phương tiện thông tin và truyền hình hiện đại, những sự đổi mới kĩ thuật đã và đang mở rộng phạm vi và yêu cầu hoạt động của nhà trường. Nhà trường phải trở thành một bộ phận của xã hội thông tin.
Nói đến giáo dục cho ngày mai, giáo dục hiện đại là đặt ra yêu cầu phải chuyển nhà trường học tập sang một loại của nhà trường của cuộc sống thực tế, sôi nổi và biến động. Trước đây 100 năm, nhà sư phạm Ý Maria Montessori đã nói đến mô hình giáo dục và giờ học theo tinh thần ấy, một giả thuyết đã được thực tiễn xã hội và những thành quả trong giáo dục trẻ em chứng minh là đúng đắn. Không những thế, luận điểm cơ bản nêu trên còn là một định hướng khoa học kéo theo sự cải cách nội dung, phương pháp và đánh giá ở nhà trường và trong xã hội, và một khi việc học tập vượt khỏi phạm vi bốn bức tường chật hẹp và nhịp điệu 45 phút thì nhà trường phải có quyền tự quyết định nhiều hơn những vấn đề riêng của mình.
5. Cải cách giáo dục là xét lại chương trình giáo dục (Curriculum).
Phát biểu nói trên của Saul B.Robinson năm 1967 nhấn mạnh tầm quan trọng của chương trình giáo dục. Tuy nhiên, việc đổi mới chương trình giáo dục thường gặp nhiều khó khăn, dẫn đến hai loại giải pháp tình thế :
a/ Chỉ chú ý tới môn học và lí luận dạy học bộ môn ;
b/ Xây dựng loại chương trình giáo dục thực dụng, trung hạn, ít có nhưng thay đổi cơ bản và thiếu tính đồng bộ.
Sơ đồ khung của một chương trình giáo dục áp dụng cho những năm đầu của thế kỉ 21 cần được xây dựng theo các nguyên tắc sau đây:
a/ Phản ánh những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đối với giáo dục;
b/ Xác định các mục tiêu giảng dạy và học tập dựa trên những chuẩn mực khoa học và điều kiện thực tế;
c/ Đảm bảo sự thống nhất giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp và đánh giá;
d/ Xây dựng chương trình giáo dục tập trung vào người học (“Subject - centered - Curriculum”).
Dưới đây là một trong nhiều hình thức trình bày trình tự và những mối quan hệ chung nhất chi phối toàn bộ chương trình giáo dục:
Triết lí giáo dục và các nguyên tắc chung |
Các lĩnh vực học tập cơ bản(*) |
Các kĩ năng cơ bản |
Kĩ năng tính toán; Kĩ năng thông tin; Kĩ năng giao tiếp; Kĩ năng giải quyết vấn đề; Kĩ năng hợp tác; Kĩ năng tự quản; Kĩ năng làm việc và nghiên cứu; Kĩ năng bảo vệ sức khoẻ và phát triển thể lực. |
Các thái độ và giá trị |
Đối với Việt Nam, cùng với sự phát triển của kinh tế, khoa học kĩ thuật, sự đầu tư cho giáo dục ngày càng được quan tâm một cách thích đáng. Các đề án đổi mới mô hình giáo dục, đổi mới phương pháp giáo dục ngày càng phát huy. Việc đổi mới, cải cách nền giáo dục của Việt Nam bước đầu đã có những chuyển biến tích cực. Cũng như các nước trên thế giới, xác định đổi mới giáo dục điều đầu tiên cần xác định mục tiêu, chiến lược và quan trọng hơn cả là mô hình giáo dục phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.